Thánh Giustinô sinh khoảng năm 100 và tử đạo vào năm 165 tại Nablus, Samaria. Sinh trưởng trong một gia đình ngoại giáo, nhưng Ngài luôn nuôi dưỡng nhiệt tình tìm kiếm Thiên Chúa chân thật. Với nhiệt tình này, Ngài đã tiếp xúc với mọi triết thuyết đương thời và không thoả mãn được các đòi hỏi của trí khôn.
Để đối thoại với các nhà tư tưởng thuộc Do Thái, Tân Platon và Ngộ Đạo Thuyết cũng như để bảo vệ niềm tin Kitô Giáo, thánh Giustinô rút ra từ Kinh Thánh Cựu Ước, Tân Ước, đặc biệt từ một tài liệu được gọi là “Ký ức của các Tông Đồ,” những chứng tá và những kinh nghiệm về Phép Rửa (x. Apology, 61) và Thánh Thể (x. ib., 65-66). Đồng thời thánh nhân con tái tìm hiểu và gạn đục khơi trong những ý tưởng của những triết gia mà ngài đã nghiên cứu để giải thích về mầu nhiệm Thiên Chúa. Ngài chú tâm suy tư về Chúa Cha và Chúa Con (Logos), nhưng lại ít chú ý hơn về Chúa Thánh Thần. Ở đây, Giustinô có sự khác biệt so với Athanasiô, một nhà hộ giáo ở thế kỷ III đã bắt đầu suy tư về Thiên Chúa Ba Ngôi bao gồm cả Chúa Thánh Thần.
1) Thần tính của Chúa Giêsu
Được thúc đẩy bởi một đức tin mạnh mẽ, thánh Giustinô nhận thấy thần tính của Chúa Giêsu được các lời ngôn sứ trong Cựu Ước đề cập đến rồi (First Apology, 30-53). Tuy nhiên, khi tin nhận và tuyên xưng Chúa Giêsu là Thiên Chúa, thánh Giustinô có phải hy sinh niềm tin vào một Thiên Chúa duy nhất không? Đây là câu hỏi mà Giustinô luôn quan tâm. Từ đó, ngài tìm hiểu và trình bày cách sâu sắc câu trả lời cho vấn nạn này khi cho rằng việc tôn thờ Chúa Kitô không những không chống lại niềm tin độc thần mà còn là một kế tục của niềm tin này (Diologue, 48-108). Khi nói về những tên gọi và danh xưng của Thiên Chúa, Giustinô thêm vào một phẩm tính mà chúng ta không tìm thấy rõ ràng trong Tân Ước, đó là ngài nhấn mạnh đến phẩm chất “không được sinh ra” và “tự hữu” của Chúa Cha. Theo đó, Chúa Cha là “nguyên ủy” của mọi sự và Chúa Con hằng hữu của Người thì “được sinh ra” trước mọi loài thụ tạo và là tác nhân của công trình tạo dựng (x. Ga 1,3; 1 Cr 8,16-17):
“Chúa Cha là nguồn gốc của tất cả mọi sự, Người không được sinh ra (agenitos). Nên không có danh xưng nào khác phù hợp dành cho Người, Đấng không được sinh ra. Thật vậy, danh xưng mà Người được khẩn cầu nói lên rằng Người là hữu thể tự hữu mà chúng ta gọi Người là Cha, Đấng Sáng Tạo, Đức Chúa và là Chủ mọi sự. Đây không là những danh hiệu, nhưng là những danh xưng phát xuất ân huệ và hoạt động của Người. Con Người được gọi là Đức Kitô bởi vì Người được xức dầu, một mình Người được gọi là Chúa Con, Ngôi Lời - Logos, Đấng ở cùng Thiên Chúa và được sinh ra trước mọi loài thụ tạo, lúc khởi đầu Thiên Chúa đã sáng tạo và xếp đặt mọi sự nhờ Người.”[1]
Thành ngữ “Ngôi Lời ở cùng Thiên Chúa” có âm hưởng của Gioan 1,1, còn việc tạo thành mọi sự “nhờ Người” có âm hưởng của Gioan 1,3; mục đích của ngài là muốn nói rằng chỉ có Chúa Con mới được gọi là Con và ai tin vào Người sẽ trở thành “con cái” Thiên Chúa (x. Ga 1,12-13). Ở đây, chúng ta thấy lý do tại sao thánh Giustinô gọi Thiên Chúa là Cha của mọi loài hay là Đấng Sáng Tạo (ho Theos như là cách thức thường dùng của Phaolô và Gioan).
Cũng trong phần này của tác phẩm Secondo Apology, Giustinô trình bày hai tước hiệu Kitô học “từ trên xuống,” đó là tước hiệu Con, Ngôi Lời, và thêm một tước hiệu khác “từ dưới lên” là Đức Kitô. Trong một đoạn khác, ngài giải thích về tước hiệu Con và Ngôi Lời như sau:
“Tự nơi chính mình Thiên Chúa sinh ra một Đấng Quyền Năng thượng trí trước khi khởi đầu mọi loài thụ tạo khác. Chúa Thánh Thần làm chứng về Đấng Quyền Năng này qua những tước hiệu khác nhau như: Vinh Quang của Thiên Chúa, là Con, hoặc là sự Khôn Ngoan, là Thiên Thần, hoặc là Thiên Chúa, là Đức Chúa, hay là Ngôi Lời.”[2]
Việc Giustinô nói đến “một Sức Mạnh thượng trí nào đó” và “sự Khôn Ngoan” làm chúng ta nhớ lại ngôn ngữ của Phaolô nói về Chúa Giêsu chính là “Sức Mạnh và sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa” (1Cr 1,24). Kinh Thánh cũng gọi Thiên Chúa (Chúa Cha) như là “Sức Mạnh” (x. Mc 14,62). “Vinh Quang của Thiên Chúa” gợi lên sự hiện diện thần linh (Shekinah) được Cựu Ước nói đến rất nhiều (x. Xh 40,34-38) và có liên hệ với ngôn ngữ của các tác giả Tân Ước như Gioan (x. Ga 1,14; 2,11) và Phaolô (x. 2Cr 4,6; Hr 1,3) khi họ nói về “Vinh Quang” của Chúa Kitô. Giustinô là nhà hộ giáo đầu tiên can đảm đồng hóa Chúa Giêsu với sự Khôn Ngoan thần linh trong sách Châm Ngôn 8,22.[3]
Thánh nhân cũng gán cho Chúa Giêsu một tước hiệu mà Tân Ước không bao giờ đề cập đến, đó là Thiên Thần. Trong Thiên Thần Học lúc bấy giờ, một số tác giả Tân Ước (x. Hr 1,5-14) đã quả quyết rằng Chúa Kitô trổi vượt hơn các thiên thần. Tuy nhiên, trong thế kỷ thứ II, Giustinô cho rằng theo truyền thống Cựu Ước, hạn từ “Thiên Thần của Đức Chúa” có thể được dùng để thay thế cho từ YHWH hoặc Đức Chúa (x. St 31,11.13; Xh 3,2.4-5). Trong danh sách của Giustinô, Thiên Thần là một tước hiệu thần linh được đặt trước bốn tước hiệu khác (Sức Mạnh, Vinh Quang Đức Chúa, Con, và Khôn Ngoan) và theo sau bởi ba tước hiệu cao cả khác là (Thiên Chúa, Đức Chúa, Lời). Chúng ta sẽ tìm hiểu cách vắn tắt việc Giustinô đánh giá tước hiệu Thiên Thần như thế nào để bảo vệ tính siêu việt vô hình của Chúa Cha và diễn tả vai trò trung gian của Chúa Giêsu.
Khác với các tước hiệu cao cả khác mà Giustinô áp dụng cho Chúa Giêsu (như Con, Đức Chúa, Lời, Khôn Ngoan, và Thiên Chúa), quan điểm của Giustinô về Thiên Thần không có nền tảng chắc chắn để tiếp tục tồn tại (giống như khi gọi Chúa Giêsu là Sứ giả trong thư Hípri 3,1, theo các nhà chú giải tác giả thư này có sự lẫn lộn nào đó).
Giustinô nhìn nhận thần tính của Chúa Con hoặc của Ngôi Lời. Điều này thúc đẩy việc suy tư về tương quan giữa Chúa Cha và Chúa Con. Khi giải thích việc sinh ra của Ngôi Lời, Giustinô so sánh như mặt trời phát ra những ánh sáng hoặc như một ngọn lửa nhen lên những ngọn lửa khác. Chỉ những loại suy này mới có thể diễn tả “việc sinh hạ Chúa Con không giống như một cắt xén, nên bản thể (ousia) của Chúa Cha bị phân chia.”[4]
Từ đó, Giustinô thấy trước vấn nạn được tranh luận trong thế kỷ IV, đó là “sự đồng bản thể” (hoặc thuộc một bản thể) của Chúa Cha và Chúa Con (hay Ngôi Lời), trong đó các Ngôi Vị chia sẻ cùng yếu tính hay cùng ousia. Cũng vào thời đó, nhờ Tertullianô, hình ảnh của Giustinô về Ánh Sáng từ Ánh Sáng đã được sử dụng lại trong tín biểu Nixêa.[5] Khi sử dụng ngôn ngữ về mặt trời phát sinh những tia sáng và lửa nhen lên những ngọn lửa khác, phải chăng Giustinô bị ảnh hưởng bởi ý tưởng của Ngộ Đạo Thuyết (như Tertullianô sau này) khi cho rằng không có gì được coi là đích thật trừ khi nó ở trong sự nhận thức con người? Những lối so sánh này từ mặt trời và lửa cũng tạo nên vấn nạn: phải chăng sản phẩm ở cùng trật tự hay thấp hơn so với nguồn gốc nó phát xuất? Trong mọi trường hợp, thánh Athanasiô (+373) nhận thấy nơi mặt trời và tia sáng mặt trời một hình ảnh rất được ưu thích để nói về việc Chúa Con sinh ra từ đời đời, trong khi chính Kinh Thánh từ xưa đã áp dụng cho Thiên Chúa những sự so sánh với mặt trời và lửa rồi (x. Xh 24,17; Hr 12,29).
Ngoài việc đồng hóa Chúa Con với Khôn Ngoan trong Châm Ngôn 8,22, một lối ẩn dụ Ánh Sáng từ Ánh Sáng và việc sinh ra đời đời từ bản thể thần linh (ousia), Giustinô cũng là tác giả Kitô Giáo đầu tiên khám phá ý nghĩa Ba Ngôi (hoặc hai ngôi) trong sách Sáng Thế: “Thiên Chúa (Elohim) phán: “Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất” (St 1,26).
Các tư tưởng gia Do Thái trước Giustinô đã đưa ra thảo luận số nhiều (Elohim) được dùng ở đây để nói về Thiên Chúa trong Kinh Thánh. Đối với Giustinô, cụm từ “chúng ta hãy làm” ít nhất gợi lên hai Ngôi Vị thần linh: trước khi tạo thành, Chúa Con nói với Chúa Cha như thế (Dialogue, 62; 129). Tuy nhiên, điều mà chúng ta bắt gặp trong Sáng Thế Ký 1,26 là số nhiều về sức mạnh trong từ Elohim và về sự bàn định trong cụm từ “chúng ta hãy làm,” một hình thức số nhiều nói về sự bàn định và quyết định khi ai đó cân nhắc điều gì hoặc cam kết nhưng là một sự độc thoại. Số nhiều ở đây có thể cũng hoặc có thể quy chiếu về những hữu thể ở trên trời nhưng không phải là Thiên Chúa, là những triều thần thánh của Thiên Chúa: “Vị khách ở trên trời” trong 1 Các Vua 22,19 hoặc “con cái Thiên Chúa” trong Gióp 1,6.
Trong tác phẩm của mình, Giustinô đề cập nhiều hơn về “vị Thiên Chúa khác ngoài Đấng Tạo Hóa” (Dialogue, 50), Đấng “phân biệt trong số lượng chứ không phải trong tâm trí” (Ibid, 56). Quả thế, việc nói về Chúa Con như là “Thiên Chúa khác/thứ hai,” như Origine cũng đã làm (Dialogue with Heracleides) 2.3), có thể kết liễu niềm tin Độc Thần Thuyết (vì loại suy theo kiểu nhiều thần: thần thứ nhất, thần thứ hai hoặc thần thứ ba) hoặc có thể rơi vào thứ Hạ Phục Thuyết không thể nào chấp nhận, theo đó, Chúa Con không sở hữu thần tính đích thực của Chúa Cha và là Thiên Chúa thứ hai. Tuy nhiên, khi chia sẻ cùng một lý trí, đến mức mà lý trí đó vốn có những đặc tính chính yếu của Thiên Chúa, thì một cách cần thiết nó phải dẫn tới việc chia sẻ cùng thần tính với Thiên Chúa. Giustinô không phân biệt nơi Thiên Chúa có lý trí và ước muốn. Điều này có lẽ một sự gợi ý trước cho những suy tư sau này về bản tính thần linh, hoặc physis (lý trí thần linh và ý muốn). Sau này, Origene, các giáo phụ Cappadoci, thánh Augustinô, thánh Tôma Aquinô, và những vị khác đã phát triển suy tư về sự phân biệt này nơi Thiên Chúa.
Về sau, các giáo phụ và các nhà thần học đón nhận ngôn ngữ của Giustinô và suy tư nhiều hơn về tính duy nhất của lý trí thần linh được Ba Ngôi Vị Thiên Chúa chia sẻ. Điều này gợi lên cho chúng ta một thách đố: Chúng ta có thể phân biệt những cách thức của Ba Ngôi Vị dựa trên nền tảng của sự hiểu biết không? Ba Ngôi Vị chia sẻ cùng một lý trí thần linh như thế có nghĩa là không có chỗ để phân biệt sự hiểu biết của mỗi Ngôi Vị chăng?
b) Ba Ngôi
Trong First Apology, Giustinô đã đưa vào quan niệm về Con Thiên Chúa là Ngôi Vị “thứ hai” và thêm vào một quy chiếu về Chúa Thánh Thần như là Ngôi Vị “thứ ba”:
“Chúng tôi tôn thờ Đấng Tạo Thành vũ trụ... với lời cầu nguyện và tạ ơn... Chúng tôi dâng lời tạ ơn của chúng tôi lên Người bằng lời nói, những nghi lễ long trọng và những bài thánh thi... Người là Chúa, Đấng dạy chúng tôi thi hành việc tôn thờ này và là Đấng được sinh ra vì mục đích này, Người đã chịu đóng đinh dưới thời Phongxiô Philatô... Chúng tôi tin chắc rằng Người là Con Thiên Chúa thật và Người nắm giữ vị trí thứ hai trong trật tự cùng với Thánh Thần của các ngôn sứ ở vị trí thứ ba. Tôi sẽ chứng minh điều mà chúng tôi tôn thờ là hữu lý.”[6]
Qua cách diễn tả này của Giustinô, ý nghĩa về sự lệ thuộc (vị trí thứ hai và vị trí thứ ba) có thể đưa đến nguy cơ đánh mất sự ngang hàng trong sự hiệp nhất giữa Ba Ngôi Vị Thiên Chúa. Tuy nhiên, thật đáng tiếc là phụng tự Kitô giáo thiếu vắng tóm lược về niềm tin Ba Ngôi theo cái nhìn của Giustinô. Theo ngài, Đấng Tạo Thành hay Chúa Cha được tôn thờ trong phụng vụ như Con Thiên Chúa đã dạy trong diễn từ tại Bữa Tiệc Ly. Việc gọi Chúa Thánh Thần là Thánh Thần của các ngôn sứ muốn nói đến Kinh Thánh được linh hứng mà từ đó thánh Giustinô xây dựng nền thần học về Ba Ngôi. Ngài cũng làm như thế khi nói đến những cách thức suy tư hoặc triết lý. Một số đoạn gợi lại những phương pháp mà Giustinô đã theo đuổi và truyền lại cho những thế hệ kế tục ngài: bối cảnh tạ ơn và ơn cứu độ được kinh nghiệm trong khi thờ phượng, việc tuyên xưng Thiên Chúa Ba Ngôi được diễn tả trong quá trình phát triển tín biểu, dựa trên những chứng tá chắc chắn của Kinh Thánh và những đòi hỏi của tư duy có lý lẽ vững chắc. Chẳng hạn ngài nói về Chúa Cha là “Đấng Tạo Hóa của vũ trụ,” “Chúa Con là Con của Thiên Chúa thật,” là Đức Chúa được sinh ra, chịu đóng đinh dưới thời Phongxiô Philatô” và “Chúa Thánh Thần của các ngôn sứ.”
Trước khi kết thúc việc tìm hiểu những trích đoạn từ First Apology, chúng ta hãy lưu ý rằng Giustinô (sau này cả Irênê và Tertullianô nữa) đã không luôn phân biệt cách rõ ràng giữa Thần Khí với Ngôi Lời nhập thể.[7] Điều này được J.N.D Kelly làm chứng rất rõ ràng.[8]
Theo quan điểm của Kelly, chúng ta có thể thêm vào sự kiện là Cựu Ước nhiều lúc đã dùng Logos của Thiên Chúa và Thần Khí như là sự so sánh và nhân cách hóa thay thế lẫn nhau để nói về hoạt động Thiên Chúa; sự song đối này có lẽ đã thôi thúc Giustinô và những nhà thần học khác nhận biết rằng Kinh Thánh chứa đựng những lối đồng hóa này. Điều chắc chắn là giáo huấn về thần tính của Chúa Thánh Thần và căn tính riêng của Người (đối với Cha và Con) được làm sáng tỏ và được xác định từ thế kỷ IV trong Công Đồng Constantinople I (381). Thật vậy, trong suy tư của mình, thánh Giustinô đã đưa vào trong giáo huấn của mình sự phân biệt thần linh của Thánh Thần khi cho rằng ngay từ đầu, người Kitô hữu đã tôn kính Chúa Thánh Thần.[9]
c) Các sứ vụ
Trong cuốn First Apology, Giustinô nói đến nguồn gốc của Hai Ngôi: Chúa Con được sinh ra, chịu đóng đinh” và “Thánh Thần của ngôn sứ.” Với quy chiếu này, chúng ta đề cập đến sứ vụ của Chúa Con và Chúa Thánh Thần trong lịch sử cứu độ. Giustinô sử dụng sự nhấn mạnh của phái Tân Platon để áp dụng cho Thiên Chúa Cha như tính siêu việt tuyệt đối, tính vô hình, và bất khả thấu của Thiên Chúa và giáo huấn về Logos Spermatikos, hay là “mầm chân lý, mầm logos” mà phái Ngộ Đạo thuyết có cùng quan điểm với ngài và tư tưởng này có liên hệ với tư tưởng của Philo về nguyên lý của lý tính tiềm tàng và liên kết trong vũ trụ và lịch sử. Giustinô phát triển chủ đề của Gioan về sự tiền hữu của Ngôi Lời như là trung gian hoàn vũ của công trình tạo thành và mạc khải.
“Mầm chân lý” được gieo rắc khắp mọi nơi[10] và ít ra nó được gieo trong mỗi con người.[11] Tùy theo những cách thức khác nhau, toàn thể nhân loại đều tham dự vào Logos.[12] Nhiều người sống chỉ “nhờ một mảnh của Logos nào đó;”[13] còn các Kitô hữu thì sống “theo sự hiểu biết và chiêm ngắm Logos toàn thể, là Đức Kitô.”[14] Giustinô áp dụng tính trung gian hoàn vũ của Ngôi Lời đối với lịch sử người Hy Lạp; ngài chú giải triết học và văn hóa Hy Lạp như là sự dẫn nhập hay sự chuẩn bị cho Chúa Kitô và Kitô giáo:
“Giáo huấn của Platon không trái nghịch với giáo huấn của Chúa Kitô, tuy nhiên, chúng không hoàn toàn giống với giáo huấn Chúa Kitô; nó giống với những giáo huấn của những người khác như Ngộ Đạo thuyết, các nhà thơ và các tác giả khác. Nhờ được chia sẻ với Logos thần linh phong phú, nên mỗi người nói hay nhận thấy điều này phù hợp với khả năng của họ... bất cứ điều gì được nói ra một cách đúng đắn bởi bất cứ ai thì thuộc về chúng ta, những Kitô hữu; để chúng ta tôn thờ, yêu mến và đến gần Thiên Chúa, Logos xuất phát từ Thiên Chúa, Đấng không được sinh ra và không thể diễn tả... Nhờ mầm của Logos được gieo trong họ, tất cả các tác giả này có thể nhìn thấy thực tại cách lờ mờ. Vì đó là mầm chân lý phát xuất từ Chân Lý và họ mô phỏng nó theo khả năng của họ; còn điều tự thân thì khác xa, nó ban tặng và lan tỏa nhờ sự tự hiến chính mình.”[15]
Để đạt tới sự hiểu biết “nhờ sự tự hiến chính mình” của Ngôi Lời nhập thể, “Đấng đến từ Thiên Chúa không được sinh ra và không thể diễn tả,” Giustinô và các tư tưởng gia Kitô giáo không phủ nhận sự hiện diện và tác động của Ngôi Lời trong đời sống và tư tưởng của Platon, Ngộ Đạo thuyết, các nhà thơ và nhà văn. Đây là sự tác động làm cho những giáo huấn của họ cách nào đó nên giống với giáo huấn Chúa Kitô.
Sau này, Origene có nói điều gì đó tương tự với tư tưởng của Giustinô, nhưng ngài diễn tả theo một cách thức khác về tia sáng thần linh (divine rays) là trung gian bởi Ánh Sáng, không bị giới hạn ở bất cứ nơi nào, nhưng được tìm thấy cách viên mãn nơi con người Chúa Giêsu:
“Sẽ không đúng khi cho rằng những tia sáng (của Thiên Chúa) chỉ có ở trong Con Người này (Chúa Giêsu )... hay cho rằng Ánh Sáng là Ngôi Lời Thần Linh, nguyên nhân của những tia sáng này, không hiện diện ở những nơi khác nữa... Chúng ta phải thận trọng không tạo nên những chống đối với bất kỳ giáo huấn tốt lành nào, kể cả những tác giả ở ngoài niềm tin.”[16]
Vào thế kỷ IV, Athanasiô thành Alexandria đã tranh luận về điều này, theo ngài, vì con người “có lý trí – logikoi,” tất cả mọi người cách nào đó đều tham dự vào Ngôi Lời/Lời; họ có trong mình ít nhất “một số dấu vết của Lời.”[17]
Hơn bao giờ hết, vài trò mạc khải và cứu độ của Ngôi Lời/Chúa Con và của Chúa Thánh Thần trong cuộc đời của những người không phải là Kitô hữu là một chủ đề rất sống động đáng suy tư.[18] Ở đây, chúng ta chỉ tìm hiểu cái nhìn bao hàm (inclusive) của Giustinô và của những tác giả khác: Theo họ, mọi người chia sẻ trong Ngôi Lời, sở hữu những nguồn mạch hiểu biết hoặc những ngôn từ nội tâm hơn là những gì được diễn tả, nhưng ngôn từ được nói ra. Như Giustinô đặt vấn đề: “Chúa Kitô là Người đầu tiên được sinh ra bởi Thiên Chúa, và... Người là Ngôi Lời mà mọi người chia sẻ. Những ai sống theo lý trí là những Kitô hữu, dẫu họ được xếp như là những người vô thần: chẳng hạn như những triết gia Hy Lạp, Socrates và Heracletus.”[19]
Trước triết gia Socrates, có lẽ người quan trọng nhất là Heracletus (d. 475 BC). Với định nghĩa nổi tiếng “không ai tắm hai lần trong một dòng sông,” ông cho rằng mọi sự luôn ở trong một tình trạng của dòng chảy vĩnh hằng. Giustinô có thể tự cho mình như là người tôn Socrates lên, giống với Platon, khi bàn về thế giới của những ý tưởng không thay đổi. Cả hai khuynh hướng triết học, Heracletus và Socrates, đã cùng chia sẻ trong cùng một Ngôi Lời thần linh.
Niềm tin của Giustinô vào Chúa Kitô như là “Trưởng Tử của Thiên Chúa” là nguyên lý nền tảng chú giải cho việc giải thích lịch sử cứu độ của nhân loại nói chung và cả lịch sử Cựu Ước nói riêng. Vì Ngôi Lời tiền hữu, Chúa Con có trước khi tạo thành và là trung gian tạo thành, Người gieo mầm chân lý khắp mọi nơi. Như là Thiên Thần, Người là Đấng đến gặp gỡ Abraham, Giacóp, Môsê và những người khác trong những cuộc thần hiện của Cựu Ước.[20] Ví dụ, nơi bụi gai bốc cháy, Người nói với Môsê.[21] Bởi vì “Đấng tạo thành mọi sự” hoàn toàn siêu việt và không thể diễn tả, “Tác Giả và Cha của mọi sự” không bao giờ xuất hiện với một ai và không bao giờ phán dạy trong một con người nào.” Đó là vị Thiên Chúa và Đức Chúa khác với “Đấng tạo thành mọi sự,” Đấng đã phán với các tổ phụ trong Cựu Ước và những người khác về ý định của Thiên Chúa.”[22] Trong ánh sáng của những lời mà Chúa Cha phán nơi Phép Rửa và Biến Hình của Chúa Giêsu, cũng như theo truyền thống Tin Mừng Nhất Lãm, Giustinô là người đầu tiên muốn khẳng định rằng “Thiên Chúa Cha mọi loài” không bao giờ nói trong một con người.”
Với sự nhiệt thành muốn bảo vệ tính siêu việt tuyệt đối của “Tác Giả và Cha mọi loài” là Đấng vượt trên mọi danh hiệu và mọi sự mô tả, Giustinô đã phát triển chủ đề về vai trò trung gian của Chúa Con là Đấng “khác” hoặc “Thiên Chúa thứ hai.” Với tư cách là Ngôi Lời, trung gian và hiện diện trong mọi thụ tạo, như là Thiên Thần, Chúa Con mạc khải ý định thần linh trong các cuộc thần hiện của Cựu Ước; sau này trong Tân Ước, đó là cuộc thần hiện của Ngôi Lời (Logophanies). Chúng ta cần lưu ý rằng trong những thế kỷ đầu và thế kỷ tiếp theo, quan niệm của phái Tân Platon về những trung gian đã được phổ biến rộng rãi khắp nơi. Đây giai đoạn tạo nên lạc giáo Hạ Phục Thuyết của Arius về Ngôi Lời. Tuy nhiên, quan niệm mang tính hạ phục thuyết của Giustinô không dẫn ngài tới lệch lạch như Arius và phủ nhận thần tính đích thực của Ngôi Lời.
Các nhà tư tưởng khác trong những thế kỷ sau đã xác tín về sự đau khổ của Chúa Con nên họ đã đi đến phủ nhận thần tính đích thực của Người. Ở đây, Giustinô không đồng ý với những triết gia Hy Lạp khi họ nhấn mạnh rằng tính bất biến vĩnh cửu của Thiên Chúa không cho phép họ nói về việc nhập thể và cái chết của một Ngôi Vị thần linh. Không chỉ nói với người Do Thái, Trypho đã thách thức niềm tin của Giustinô về nhập thể: “Ông đang cố gắng minh chứng điều không thể tin và không thể có trong thực tế: nghĩa là Thiên Chúa dự định được sinh ra và trở thành con người.”[23] Vấn nạn này vẫn còn tồn tại đến hôm nay: Con Thiên Chúa làm sao có thể đi vào trong lịch sử nhân loại trong khi vẫn còn là Thiên Chúa? Những người ngoại giáo có hiểu biết cảm thấy bị xúc phạm về niềm tin của Giustinô khi ngài nói rằng Đức Kitô chịu đóng đinh như là “Thiên Chúa thứ hai.” Giustinô thêm rằng: “Họ tố cáo chúng ta là điên rồ, khi cho rằng chúng ta đã gán cho Con Người chịu đóng đinh một vị trí thứ hai trong Thiên Chúa hằng hữu và bất biến, Đấng Tạo Thành mọi sự.”[24]
Làm sao có thể quan niệm một vị Thiên Chúa là Đấng bất thụ cảm, bất biến và hằng hữu lại có thể trở thành một Đấng bị biến đổi khi liên hệ với những biến cố trong thời gian và không gian? Làm sao có thể hiểu được việc Người trở thành đối tượng của đau khổ và phải chết nơi thập giá được?
d) Tuyên xưng Ba Ngôi
Trong những trước tác của mình, Giustinô diễn tả cách hùng hồn lời tuyên xưng Ba Ngôi và tuyên xưng đức tin vào “Thiên Chúa thật” cũng được gọi là Cha và Đấng làm nên mọi sự, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần. Trong tác phẩm Firt Apology, Giustinô viết:
Sau này trong chính tác phẩm này, ngài nói về “Cha của vũ trụ,” “Con Người” và “Chúa Thánh Thần.”[26] Một số từ ngữ này được lấy từ những lời cầu nguyện trong Kinh Nguyện Thánh Thể. Ngoài ra, nghi thức Phép Rửa cung cấp công thức Ba Ngôi cho những trích đoạn khác trong First Apology. Giustinô diễn tả cho những độc giả ngoại giáo hiểu điều xảy ra khi người Kitô hữu được rửa tội: “Nhân danh Thiên Chúa là Cha và chủ tể mọi loài, nhân danh Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ chúng tôi và nhân danh Chúa Thánh Thần, họ được tẩy rửa trong nước.”[27] Sau đó, Giustinô mô tả phép rửa cách đầy đủ hơn:
“Để được ơn tha thứ những lỗi lầm quá khứ, khi dìm mình trong nước, người ta kêu cầu cho những người muốn tái sinh và những ai sám hối tội lỗi mình, nhân danh Thiên Chúa là Cha và Chúa tể vũ trụ. Việc kêu cầu này được thực hiện do những người dẫn người rửa tội đến giếng thanh tẩy… Việc dìm mình này gọi là sự Soi Sáng, vì tâm trí của những tân tòng sẽ được tràn đầy ánh sáng. Và người được soi sáng cũng được thánh tẩy nhân danh Đức Giêsu Kitô, Đấng chịu đóng đinh dưới thời quan Phongxiô Philatô và nhân danh Chúa Thánh Thần, Đấng nhờ các tiên tri mà loan báo trước những gì liên quan đến Đức Giêsu.”[28]
Rõ ràng trước Giustinô lời tuyên xưng Ba Ngôi theo trật tự của Mátthêu (Cha, Con, Thánh Thần đã được thực hành trong nghi thức Phép Rửa.
Giustinô có sự đóng góp giá trị và khởi đầu cho giáo huấn Ba Ngôi. Ngài suy tư về Thiên Chúa trong ánh sáng của kinh nghiệm được chia sẻ bởi các Kitô hữu (nhất là kinh nghiệm trong phụng vụ). Ngài cũng suy tư về Kinh Thánh được linh hứng (lúc mà Quy Điển chưa được thiết lập) và về những đòi hỏi của tư duy triết học. Ngài muốn bảo vệ tính siêu việt bất khả diễn tả của Chúa Cha, Đấng sáng tạo mọi sự. Nhưng cách diễn tả của ngài dẫn tới một khuynh hướng hạ phục nào đó của Chúa Con và Chúa Thánh Thần, trong phạm vi được suy tư. Đồng thời, Giustinô cho rằng Chúa Con khi chia sẻ một bản thể (ousia) và một lý trí với Thiên Chúa, Người đã/đang là Thiên Chúa đích thực. Giustinô trình bày về Chúa Con như là Logos, Đấng sáng tạo, xếp đặt, và tác động lên toàn thể vũ trụ. Lối trình bày này cho phép chúng ta có một cái nhìn tích cực về tình trạng tôn giáo của những người không phải là Kitô hữu. Dầu không nói nhiều về “Thiên Chúa chịu đóng đinh (Con),” Giustinô ủng hộ tính bao gồm thực sự của Thiên Chúa trong lịch sử và đau khổ của nhân loại. Ngài tin rằng Thiên Chúa Ba Ngôi được mạc khải trong Chúa Giêsu Kitô. Điều này cho phép ngài không chỉ tranh luận với người Do Thái và những người lương dân có học thức nhưng còn giúp cho các Kitô hữu ở Rôma đứng vững để chấp nhận tử vì đạo. Một cách văn chương, niềm tin Ba Ngôi của Giustinô là vấn đề sống còn.
Kết luận
Có thể kết luận rằng tầm nhìn và tư tưởng của Giustinô cách chúng ta gần 20 thế kỷ, nhưng đến hôm nay vẫn còn giá trị và mang tính thời sự. Ngài là người dọn đường từ rất xa cho Công Đồng Vatican II, nghĩa là tư tưởng của ngài giúp Giáo Hội vượt ra khỏi ranh giới hữu hình của mình để nhìn thấy hoạt động của Thiên Chúa, cụ thể là vai trò của Ngôi Lời và của Thần Khí trong vũ trụ, nơi mỗi con người, trong các tôn giáo và các nền văn hóa của các dân tộc trên thế giới, nhờ đó, nhận ra những giá trị, vẻ đẹp và những nguồn chân lý đáng cho chúng ta phải học hỏi, trân trọng và sử dụng như là những phương tiện, những con đường dẫn con người tới sự thật toàn vẹn là Đức Kitô. Tầm nhìn đó, thái độ đó, tư tưởng đó phải là tầm nhìn, tư tưởng và thái độ của người rao giảng, của linh mục trong thời đại phẳng hôm nay.
Phó Giám đốc ĐCV Thánh Phanxicô Xaviê
[1] Giustinô, Second Apology, 5.
[2] Id., Dialogue, 61. x. First Apology, 12.
[3] x. First Apology, 23; Dialogue, 129.
[4] Dialogue, 128.
[5] DH 125; ND 7.
[6] Giustinô, First Apology, 13.
[7] Id., 33.
[8] X. J.N.D Kelly, Early Christian Creeds, 3d ed. Longman, London 1992, 148.
[9] X. Giustinô, First Apology, 6.
[10] X. Giustinô, Second Apology, 8.
[11] Ibid., 10.
[12] X. Giustinô, First Apology, 46.
[13] X. Giustinô, Second Apology, 8.
[14] Ivi.
[15] Giustinô, Second Apology, 13.
[16] Origene, Contra Celsum, 7,17).
[17] Athanasiô, De Incarnatione Verbi, 3.3; xem 5,1; 6,4.
[18] x.
[19] Giustinô, First Apology, 46.
[20] Giustinô, Dialogue, 75.
[21] Giustinô, First Apology, 46.
[22] Giustinô, Dialogue, 56.
[23] Id., 68.
[24] Giustinô, First Apology, 13.
[25] Ivi, 6.
[26] Iv., 65, 67.
[27] Giustinô, First Apology, 61.
[28] Giustinô, First Apology, 61.