Lược Sử Chú Giải Kinh Thánh: Từ "Sacra Pagina" Đến "Sacra Doctrina"

Thu,21/03/2024
Lượt xem: 295

Phần cuối …

TỪ “SACRA PAGINA” ĐẾN “SACRA DOCTRINA”

Bắt đầu từ thời Trung Cổ, công việc chú giải Kinh Thánh được mang vào các Đan viện, Học Viện và Đại Học, từ đó đã trở nên chuyên nghiệp hơn để đáp ứng nhu cầu của mỗi bối cảnh. Có ba cột mốc trong tiến trình chú giải Kinh Thánh ở giai đoạn này: Augustinô với mục tiêu gia tăng lòng mến Chúa & yêu người, giai đoạn tiền Kinh Viện với mục tiêu gia tăng sự phong phú về ý  nghĩa Kinh Thánh, và Tôma Aquinô với nhu cầu tìm hiểu giáo lý thánh.

Thánh Augustinô: gia tăng lòng mến Chúa yêu người

Từ khi Augustinô được nghe Ambrôsiô giải thích và trích dẫn thư Phaolô,“Chữ viết thì giết chết, nhưng Thần Khí thì mang lại sự sống” (2 Cr 3,6) thì con mắt thiêng liêng của ngài được mở ra.  Từ đó ngài hiểu Kinh Thánh như là ngôn ngữ hay ký hiệu của Thiên Chúa và mục tiêu của việc chú giải Kinh Thánh là giải mã các ký hiệu để đạt đến thực tại thánh thiêng, tức là tri thức về Thiên Chúa, đang tiềm ẩn trong đó. Tri thức về Thiên Chúa thì vượt trên khả năng tự nhiên của lý trí, do đó ngoài việc nghiên cứu triết học và tu từ học, tâm hồn con người cần được thanh luyện cùng với thẩm quyền của Giáo hội, tức là kinh nghiệm sống đức tin được tích lũy qua dòng thời gian. Tri thức mà Kinh Thánh mạc khải cho chúng ta chính là sự khôn ngoan giúp gia tăng đức tin và lòng “mến Chúa yêu người” nơi chúng ta.

Augustinô là nhân vật đầu tiên khai triển mối tương quan giữa ngôn ngữ và việc tìm hiểu thánh ý Chúa. Trước khi được rửa tội, ngài dạy môn tu từ học (rhetorics) nên rất am hiểu về văn chương và ngôn ngữ. Kinh Thánh chứa đựng mầu nhiệm thực tại vô hình trở thành hữu hình nơi Đức Kitô, thực tại siêu việt vốn là nguồn cội của mọi tri thức và khôn ngoan mà đức tin đang tìm kiếm. Đứng sau lối tiếp cận của Augustinô là triết học nhị nguyên của Platô: Cần phải giải thích những gì thay đổi, hữu hình, thuộc thời gian và lịch sử con người trong tương quan với những gì là bất biến, siêu việt, vĩnh cửu và kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Chỉ có tri thức về thực tại vĩnh cửu mới có thể giúp giải thích các ký hiệu vật chất, tức là ngôn ngữ của Kinh Thánh. Thực tại vĩnh cửu đó đang soi chiếu trên tâm hồn của con người và chờ đợi con người trở về nội tâm của chính mình. Do đó, chú giải Kinh Thánh bao gồm cả hai chiều kích khách quan (ngôn ngữ) và chủ quan (tâm hồn của người chú giải).

Từ khía cạnh khách quan, Augustinô xem ngôn ngữ như là ký hiệu nói lên ý định của tác giả. Người đọc dựa trên kinh nghiệm riêng của mình để giải mã những ký hiệu đó, nhưng với kinh nghiệm và uy tín của nhiều người khác thì sự hiểu biết đó sẽ được mở rộng và phổ quát hơn. Nếu Giáo Hội là một “cộng đoàn chú giải” vốn có uy tín và thẩm quyền trên cách cá nhân chú giải Kinh Thánh, thì truyền thống đức tin của Giáo hội cần phải được trân trọng. Từ khía cạnh chủ quan, Augustinô cho rằng nếu muốn nắm bắt mạc khải siêu việt đứng sau Kinh Thánh, thì người chú giải phải có một sự khao khát tâm linh cho hạnh phúc vĩnh cửu. Muốn nhận ra ánh sáng thần linh đang chiếu tỏa trên tâm hồn của con người, thì con người cần phải có: lòng kính sợ Thiên Chúa; lòng sùng mộ; gắn bó vào đức ái; dũng cảm tìm sự công chính; tâm hồn thanh luyện; và thái độ khôn ngoan rút tỉa từ thực hành chiêm niệm.[1] Chú giải Kinh Thánh không buộc phải có kiến thức mới lạ, nhưng đòi phải biết khám phá cho ra thánh ý Thiên Chúa, ngõ hầu đạt tới mức chiêm niệm các chân lý trường cửu vốn là đối tượng của sự khôn ngoan. Trong trường hợp hoài nghi về ý nghĩa của bản văn thì dùng quy tắc“Hãy chú giải để Lời Chúa làm gia tăng lòng mến Chúa yêu người.” Như thế, cả hai vế, ‘dựa trên đức tin chân chính của Giáo Hội’ và ‘gia tăng lòng mến Chúa yêu người’ đều là tiền thức để chú giải Kinh Thánh. Mục tiêu làm sáng tỏ ý nghĩa của những thực tại siêu việt tiềm ẩn trong Kinh Thánh có tương quan hết sức mật thiết với việc suy tư thần học trong giai đoạn Kinh Viện này.

Tiền Kinh Viện: gia tăng mức độ phong phú của bản văn

Các trường phái chú giải Kinh Thánh ở các thế kỷ đầu đã giúp cho nội dung của đức tin Kitô giáo giảm bớt tính thần thoại của các tôn giáo cổ xưa, nhưng cũng đưa đến tranh luận về một số chủ đề giáo lý nền tảng. Do đó, vai trò của các Công Đồng trở nên tất yếu để giải quyết các tranh chấp và thiết lập tính chính thống của thần học. Từ Nicea I (325) cho đến Nicea II (787), có tổng cộng bảy Công Đồng đã đóng góp vào việc thiết lập các quy phạm về tín lý Kitô giáo. Đây là giai đoạn việc chú giải Sách Thánh (Sacra Pagina) trở thành hàn lâm hơn, bao gồm những bản chú giải của các Giáo Phụ cùng với các đoạn trích dẫn ngắn gọn của các học giả bình luận về bài chú giải gốc. Tất cả được kết nối lại thành những bài “bình phẩm” (catena), thường mang tên của các học giả nổi tiếng như: Gioan Kim Khẩu, Ambrôsiô, Hilariô, Augustinô và Giêrônimô.

Ở thế kỷ X dưới triều đại Carolingius, một cải cách mới bắt đầu xuất hiện. Thay vì sáng tác những bài bình phẩm như trước đây thì người ta dùng “chú thích” (gloss), tức là những lời giải thích ngắn gọn và ý kiến cá nhân được ghi chú bên lề, chen vào giữa bản văn gốc, hoặc để riêng cuối sách, như cách chúng ta dùng “footnotes” hoặc “end notes” ngày nay. Trong các thế kỷ sau, nhiều câu hỏi và chủ đề thần học được thêm vào các “chú thích”; và cuối cùng, các “chú thích” ngày càng càng dài thêm ra và trở thành những “tiểu phẩm” bình luận riêng biệt, được các sinh viên ghi chép lại từ bài giảng của các giáo sư về bản văn gốc. Từ đó, việc chú giải Kinh Thánh sớm trở thành một môn học thuật riêng biệt, lan rộng từ thư viện của các Kinh sĩ Đan viện Victor (Victorines) đến Đại học Paris.

Nét đặc thù của chú giải Kinh Thánh thời Trung Cổ là cách dùng ngụ ngôn (allegory). Thay vì đi tìm một nền tảng nào khác bên ngoài (ẩn dụ, triết lý, kinh nghiệm thần bí) để minh họa cho ý nghĩa của Kinh Thánh, thì phương pháp ngụ ngôn nhấn mạnh các mức độ ngữ nghĩa. Phương pháp này gia tăng tối đa sự phong phú về ngữ nghĩa và thỏa mãn khát vọng chú giải của thời Trung Cổ. Ví dụ, hạn từ “Giêrusalem” là ngụ ngôn về bốn thực tại: thành đô Do Thái, Giáo Hội, Thiên Đàng, và linh hồn. Kết quả là có bốn ý nghĩa của bản văn: (1) Nghĩa lịch sử nhấn mạnh vào ý nghĩa cụ thể của mặt chữ hay thân xác; (2) Nghĩa biểu tượng chú giải theo luân lý hay tâm linh; (3) Nghĩa tiên trưng xem sự kiện quá khứ như hình ảnh về biến cố hiện tại, ví dụ, “tàu Nôê” hay “rắn đồng” là hình ảnh tiên trưng cho “Thánh giá”; (4) Nghĩa loại suy chỉ ra nhiều mức độ bản thể luận mà cùng một hạn từ có thể được dùng.

Thời đó, Kinh Thánh được xem như một Vương Cung Thánh Đường đầy dẫy những biểu tượng và hình ảnh, cho nên người chú giải phải tìm mọi cách để nói lên tính siêu việt của Đấng Tối Cao vốn vượt trên mọi giới hạn của ngôn ngữ và ý niệm. Trời Trung Cổ chưa có một học thuyết mạc khải rõ ràng và thần lý học hay thần học tự nhiên cũng chưa được phát triển đầy đủ. Các giáo phụ chú giải Kinh Thánh dựa trên niềm tin vào sự linh ứng của Lời Chúa. Đến thời Kinh Viện thì có khuynh hướng chú giải duy lý của Albertô Cả và khuynh hướng thần bí của Gioakim thành Flora. Khuynh hướng thần bí cuối cùng bị lên án và lối chú giải ẩn dụ cũng mất dần ảnh hưởng. Với sự ảnh hưởng của Tôma và nghiên cứu tại các đại học, thì việc khai triển các tín khoản (Sacra Doctrina) được tách ra khỏi ngành chú giải Kinh Thánh, và trở thành nền tảng cho thần học tín lý sau này.

Thánh Tôma: khai triển “Sacra Doctrina”

Trong khi học thuyết chú giải của Augustinô nhấn mạnh vào hảnh trình hoán cải nội tâm, thì Tôma Aquinô chú tâm nhiều hơn đến khía cạnh khách quan của bản văn. Qua nhãn quan duy thực của Aristotle: “Tất cả mọi tri thức đều bắt đầu từ giác quan”, Tôma lý luận rằng chúng ta không cần phải loại bỏ thực tại vật chất để có thể nhận ra ý nghĩa thiêng liêng của Kinh Thánh, nếu chúng ta biết cách kết nối đức tin với lý trí. Tôma cẩn thận so sánh hình thức của các bản văn để xác định tính trung thực và phân tích cách dùng ngôn ngữ của nó. Chú giải Kinh thánh thì đồng nghĩa với việc khai triển tri thức về Thiên Chúa và đó cũng là sứ mệnh của thần học.

Tôma cho rằng nếu Kinh Thánh nói về Thiên Chúa bằng nhiều loại ngôn ngữ thì người chú giải cần phải có sự hiểu biết về nhiều cách dùng ngôn ngữ khác nhau để nắm bắt chân lý của bản văn. Ngôn ngữ phủ định có thể nói chính xác về Thiên Chúa, nhưng chúng ta không thể mãi mãi nói “Thiên Chúa không là…”. Mặt khác, nếu dùng ngôn ngữ khẳng định (“Thiên Chúa là...”) thì cũng sẽ vướng vào sự mâu thuẫn của “đơn nghĩa” hay sự mơ hồ của “đa nghĩa”. Vì thế, chỉ có ngôn ngữ “loại suy” mới phù hợp nhất cho thần học, vì nó bao hàm sự hiểu ngầm về mức độ khác biệt bản thể luận giữa Thiên Chúa và con người. Phương pháp loại suy cho phép chúng ta dùng ngôn ngữ của thế giới này (khôn ngoan, chiến thắng, đá tảng, tức giận, v.v.) để nói về Thiên Chúa mà không bị mâu thuẫn. Thần học tự nhiên của Tôma đã dùng ngôn ngữ loại suy để “gọi tên” Thiên Chúa rất sáng tạo (Ngũ đạo).

Trong thế kỷ thứ XII, người ta truy vấn liệu Giáo Lý Thánh (sacra doctrina) có được xem là “tri thức” (scientia) hay không? Tôma giải quyết vấn đề này dựa trên cách Aristotle phân biệt giữa khoa học xuất phát từ các nguyên lý tự nhiên (số học và hình học) và khoa học khởi phát từ những nguyên lý thứ cấp (quang học thì dựa trên hình học; âm nhạc thì dựa trên số học). Theo Tôma, Giáo Lý Thánh là một khoa học thứ cấp xuất phát từ những nguyên lý được mạc khải; và qua đó, con người mới có được tri thức thực sự. Qua đức tin và sự hiểu biết đúng đắn về Kinh Thánh, thần học gia thông dự vào chính nguồn tri thức của Thiên Chúa, và chú giải nội dung của Giáo Lý Thánh. Thẩm quyền của họ được thể hiện qua việc trích dẫn Kinh Thánh hay các tác giả có uy tính trong các bài bình phẩm. Một khi trào lưu tranh luận về ý nghĩa của những lời chú giải trở nên tự lập và tách rời khỏi công việc diễn giải văn bản, thì danh xưng “Thần Học” đã dần dần được dùng để thay thế cho Giáo Lý Thánh (sacra doctrina).

CHÚ GIẢI KINH THÁNH THỜI CẬN ĐẠI

Sau thế kỷ XV, sự tổng hợp triết-thần bị thử thách và việc học thuyết “bốn ý nghĩa” của bản văn thời Kinh Viện cũng mất dần hiệu lực. Quan điểm chú giải Kinh Thánh của Origen, “chữ viết thì giết chết, còn Thần Khí mới ban sự sống” (2Cor3:4-7) được phong trào Cải Cách mặc lên một chiếc áo mới. Vấn đề “sống/chết” giờ đây trở thành tình huống hiện sinh của con người đứng trước lời mời gọi của Kinh Thánh. Hơn nữa, não trạng Khai Sáng nêu lên nhu cầu tìm hiểu ý nghĩa của các bản văn và nền văn hóa xa lạ vốn bị đánh mất vì khoảng cách lịch sử. Cuối cùng, triết học lãng mạn đã biến chú giải bản văn thành một nghệ thuật cân bằng giữa hai khía cạnh khách quan và chủ quan của ngôn ngữ, lội ngược dòng chảy từ “ngôn từ” đến “ý tưởng” của tác giả. Để tránh sự hiểu lầm về văn hóa và bản văn xa lạ, thì người chú giải cần khai triển không gian “phía sau bản văn”.

Phong Trào Cải Cách chú giải Kinh Thánh

Vào khoảng 1520, Martin Luther được giao trách nhiệm soạn bộ bài giảng cho phụng vụ suốt cả năm. Khi giải thích câu “Và họ đã tìm thấy cả Mary và Giuse và con trẻ nằm trong máng cỏ” (Lc 2:16), Luther giải thích: Mary đại diện cho Mẹ Giáo hội, Giuse đại diện cho các giám mục và các cha xứ, vì Giáo hội thì quan trọng hơn hàng giáo phẩm, cho nên Mary được Kinh Thánh đề cập đến trước Giuse.  Luther đang dùng một hình thức chú giải ẩn dụ (allegorical) bắt nguồn từ Philo ở Alexandria (20BC-40AD), vốn cho rằng ý nghĩa chân chính cho bản văn bên dưới từ nguyên của bản văn. Ví dụ, “Đức Chúa trồng một vườn trong Eden” phải được hiểu là Đức Chúa đặt nhân đức tốt lành của tự nhiên vào loài người. Luther cố tìm trật tự bên dưới bản văn (sự tốt lành của Giáo hội bên dưới phẩm trật chức sắc bề ngoài). Điều mà Luther lên án là thói quen của Kinh Viện dùng các chân lý phổ quát (triết học) để giải thích ý nghĩa của mạc khải Kinh Thánh. Luther cho rằng đây là một sự đam mê mù lòa, hay một tình trạng đang bị rơi vào cạm bẩy của Satan, lạm dụng sự đam mê cho tri thức độc lập để tách con người ra khỏi sự tuân phục vào thẩm quyền của Thiên Chúa. Thánh Thần là tác giả và cũng chính là Đấng làm chứng trong lòng các tín hữu tin vào Lời Chúa. Thay vì ẩn dụ, Luther dùng lối chú giải “từ nguyên” (literal sensu), giải thích bản văn theo từ ngữ gốc trong bối cảnh lịch sử đặt thù của nó, với mục tiêu luân lý hóa bản văn cho phù hợp với linh đạo Cải Cách của họ.

John Calvin (1509-1564) cũng nhấn mạnh vào ý nghĩa thiêng liêng của bản văn, tức là những gì Thánh Thần muốn dạy cho chúng ta qua bản văn. Nếu Kinh Thánh mạc khải ý định của Thiên Chúa thì người chú giải buộc phải trừu xuất từ ngôn ngữ nguyên thủy, bối cảnh lịch sử, cảm xúc chủ quan và sự kiện khách quan những ý nghĩa nguyên sơ và tự nhiên của mạc khải. Mục tiêu của việc chú giải là mang lại ơn cứu rỗi của Đức Kitô qua lời mời gọi của bản văn và sự đáp trả nơi người đọc Kinh Thánh. Hiểu Kinh Thánh là phải chấp nhận thẩm quyền tuyệt đối của Đức Kitô, trái ngược lại với mọi thẩm quyền con người. Vì lý do này, phải thông diễn Đức Kitô như là chủ đề chính yếu của cả Kinh Thánh, từ khởi đầu cho đến kết thúc, Ngài là mối dây hiệp nhất nối kết mọi cuốn sách của Kinh Thánh lại với nhau. Các thần học gia Cải Cách đã thay lối chú giải bản văn thời Trung Cổ bắng bốn nguyên tắc sau đây: (1) Kinh thánh là bản thiết kế (blue print) của Thánh Thần; (2) Kinh thánh phải được hiểu theo cách từ nguyên trong bối cảnh lịch sử của nó; (3) Thần Khí muốn chúng ta đón nhận chỉ một ý nghĩa cho mỗi bản văn (chứ không phải bốn ý nghĩa của thời Kinh Viện); và (4) Đức Kitô là tiêu điểm của toàn thể Kinh Thánh.

John Calvin chỉ ra chính Đức Kitô đã nói về mình như là tiêu điểm cho việc chú giải. “Rồi bắt đầu từ ông Mô-sê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh.” (Lc 24-27). Người chú giải phải hiểu vai trò chính yếu của Đức Kitô trong Kinh Thánh: “Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Mô-sê, các Sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm. Bấy giờ, Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh (Lc 24:45). Sự hiện diện của Đức Kitô cũng được tiên trưng nhiều cách trong Cựu Ước. Joshua là tiếng Hebri cho “Giêsu”, David là một chiến sĩ như Đức Kitô chiến đấu chống lại kẻ thù của Thiên Chúa. Moses đóng vai sự hiện diện của Chúa Cha và Aaron đóng vai Chúa Con-Đấng Ngôn Sứ trước mặt Pharaoh. Nói chung, nguyên tắc chú giải của phong trào Cải Cách là ‘chỉ có Kinh thánh mới chú giải Kinh thánh.”

Hơn nữa, tất cả biến cố lịch sử trong Cựu Ước là hình bóng về những sự kiện trong cuộc đời của Đức Kitô, như hành trình của dân Do Thái qua sa mạc, máu của Abel kêu thất trời cao, con cừu tế lể thay cho Isaac, Moses ẩn mình để tránh bị sát hại. Tương quan giữa Gioan Tẩy Giả với Đức Kitô được tiên trưng qua tương quan giữa Elijah và Elisha. Cái chết và sự sống lại của Người đã hiện diện trong Cựu Ước, như được tiên trưng qua sự kiện Seth là sự sống lại cho cái chết công chính của Abel; con bồ câu từ tàu Noah khám phá “sự sống” được tái hiện sau cơn hủy diệt của bảo lụt; Đức tin của Abraham được “hồi sinh” vì Issac coi như là đã chết (Hb 11:19). Giuse mang lại “sự sống” gia đình của ông qua nạn đói (St 45:5-6). Biến cố Xuất Hành là “sự sống” của Israel từ ngục tù đến đất hứa. Từ  Sáng Thế đến Cánh Chung, Lời Thiên Chúa được Thánh Thần viết qua ngôn ngữ của lịch sử làm chứng cho công cuộc cứu rỗi của Đức Kitô. Không chỉ Kinh Thánh mạc khải Thiên Chúa, mà chính Thiên Chúa là người chú giải Kinh Thánh. Người chú giải phải đắm chìm trong dòng chảy của mạc khải Kinh Thánh. Cố tình giải thích Kinh Thánh từ một gốc độ ngoại tại nào đó là đã chọn sự chết. Nhân đức thiết yếu cho việc chú giải là từ bỏ chính mình, để lòng trí chúng ta được đổ đầy với Lời mà chính Thiên Chúa đã viết xuống và ban cho chúng ta.

Giải Thích Học Thời Khai Sáng

Giải thích học thời Khai Sáng phản hồi lại lối giải thích “từ nguyên-thiêng liêng” của phong trào Cải Cách. Thời Khai Sáng nhấn mạnh vào yếu tố con người và lịch sử đứng sau bản văn với mục tiêu “phục hồi chính xác” ý nghĩa đã bị đánh mất. Họ khai triển ba phạm vi chú giải sau đây.

Thứ nhất, chân trời tri thức của bản văn cần phải được am hiểu một cách tiệm tiến, cả từng phần và toàn phần của nó trong chân trời lịch sử và khối óc mà nó được thành hình. Baruch Spinoza (1632-77) đề nghị người chú giải là một quá trình tiệm tiến và dọ dẫm. Cấn phải đi theo một “vòng tròn giải thích” từ sự hiểu biết từng phần đến sự hiểu biết của toàn phần của bản văn, rồi dùng sự am hiểu tổng thể để giải thích ý nghĩa của các phần riêng biệt. Mỗi bước tiến hay lùi khi nghiên cứu lịch sử sẽ gia tăng sự hiểu biết về bản văn. Mặt khác, Giambattista Vico (1668-1744) lý luận rằng con người là chủ thể tự do, không thể được giải thích (explain) cách trọn vẹn, nhưng cần phải được hiểu (understand). Hiểu bản văn là việc thấu triệt cho tận nguồn về chân trời tri thức của nó vốn là thế giới của con người, và nuốn hiểu nó thì ta phải đặt mình vào trong cuộc sống và hoạt động của bối cảnh lịch sử.

 Thứ nhì, ý nghĩa của ngôn ngữ của bản văn phải được liên kết với khả năng nhận thức. Johann Martin Chladenius (1710-1759) cho rằng để hiểu các hạn từ tối nghĩa, chúng ta nên xét kỹ những cách hiểu ngầm, các tiền thức và tiền thiết khách quan  của ngôn ngữ ở mỗi thời đại. Mặt khác, Georg Friedrich Meier (1718–77) khai thác tính khách quan từ ký hiệu ngôn ngữ và ký hiệu tự nhiên được dùng trong bản văn. Ý nghĩa của ký hiệu có thể được xác định từ ngữ cảnh hay mối tương quan của nó với các ký hiệu khác mà không cần phải nại đến các yếu tố bên ngoài ngôn ngữ.

Cuối cùng, bối cảnh xã hội của bản văn và tâm lý của tác giả là hai yếu tố quan trọng. Georg Anton Friedrich Ast (1778-1841) cho rằng lịch sử tính của bản văn là “vị thế” (location) của nó trong tương quan với lịch sử thế giới, tức là mối tương tác giữa bản văn với hậu cảnh lịch sử và truyền thống văn hóa của nó. Mặc khác, Christian Wolff (1679-1754) nhấn mạnh và khả năng khám phá cá tính đặc thù của tác giả. Hiểu một bản văn là phải biết cách ngôn ngữ đã hình thành như thế nào từ dòng chảy của tư tưởng nơi tâm hồn của tác giá. Mối quan tâm này sẽ được giải thích học lãng mạn khai triển sâu rộng hơn.

Nói tóm lại, chú giải học Khai Sáng đã mang lại nhiều thay đổi. Thời cổ điển nhắm vào thực tại siêu việt của Thiên Chúa nhưng thời Khai Sáng nhắm vào tinh thần văn hóa cổ điển đứng sau cách dùng ngôn ngữ. Thời cổ điển tìm sự phóng phú của các mức độ của ngôn ngữ (ẩn dụ, biểu tượng, loại suy, luân lý, vv.) nhưng thời Khai Sáng tìm sự thống nhất và chính xác về ý vị của bản văn. Thời cổ điển nhắm vào không gian bên trong bản văn (tu từ học) còn thời Khai Sáng tìm hiểu không gian phía sau bản văn (văn hóa cổ xưa, thẩm quyền của tác giả, truyền thống nguồn liệu).  Thời cổ điển đề cao sự thống nhất và hài hòa vì Thiên Chúa chính là tác giả của Kinh Thánh, nhưng thời Khai Sáng chi ra tính đặc thù của nhiều truyền thống lịch sử (J, E, P, D). Cuối cùng, thời cổ điển, “hiểu sai” là không nhận ra ý nghĩa thiêng liêng (ân sủng) của Lời Chúa, nhưng thời Khai Sáng “hiểu sai” là không nắm bắt được “tinh thần” của lịch sử hay văn hóa xa lạ.

Giải Thích Học Lãng Mạn

Schleiermacher (1768-1834) đã tạo nên khoa giải thích học qua nhãn quan triết học lãng mạn của Schelling. Ông lý luận rằng việc chú giải bắt đầu từ bản văn nhưng phải lội ngược dòng chảy ngôn ngữ đến các hoạt động tinh thần của tác giả. Vi thế, chú giải Kinh Thánh không chỉ cần kỹ năng ngữ phạm để hiệu ngôn ngữ và văn hóa xa lạ, mà còn cả kỹ năng tâm lý tìm hiểu tư tưởng và đời sống cá nhân của tác giả. Lý tưởng chú giải của Schleiermacher là “hiểu tác giả hơn tác giả hiểu chính mình”, và nếu bản văn là một sáng tác nghệ thuật, phản ảnh của một tâm hồn đặc thù và phức tạp, thì người chú giải cần phải “nhập tâm” để cảm nhận sự rung động nơi tâm hồn của tác giả.

Hơn nữa, nếu tác giả là một thiên tài thì sẽ không có quy tắc cố định nào để chú giải cho chính xác. Nhưng mỗi cá nhân thể hiện phần nào đó của bản tính nhân loại, do đó cần phải khả năng so sánh sự sống động liên tục giữa bản ngã và bản văn, tức là biện phân những gì giống nhau và khám phá những gì khác nhau nơi tác phẩm. Không phải tác giả nào cũng là người bình phẩm lý tưởng nhất cho tác phẩm của họ. Hiểu một tác phẩm là mang “tiềm thức” của tác giả lên mức độ “ý thức” nơi người chú giải, với bản văn là trung gian vốn đưa tư tưởng của tác giả lên mức độ ngôn ngữ. Muốn tránh hiểu lầm, người chú giải cần phải dọ dẫm từng bước, và xem tác phẩm như là những làn sóng âm hưởng tạo nên do tác giả bơi lội trong biển cả ngôn ngữ. Đây là hành trình tìm hiểu một cá thể rất khác với ta, một đối tác độc nhất vô nhị. Chú giải là một tiến trình ước đoán liên tục từ hiểu đến hiểu đúng hơn về ý nghĩa của tác phẩm, với mục tiêu chủ yếu là tránh hiểu lầm.

Từ quan điểm chú giải lãng mạn này, Schleiermacher cho rằng sứ mệnh của thần học là tìm hiểu kinh nghiệm đứng sau ý tưởng của tác giả. Ví dụ, kinh nghiệm nào của Đức Giêsu đã thôi thúc Ngài theo đuổi sứ mạng rao giảng Nước Trời? Trải nghiệm tôn giáo nào đã làm cho Phaolô nhấn mạnh đến khía cạnh “công chính hóa”? Thần học thông diễn cách con người tiếp nhận “mạc khải”, nhưng mặt khác, hiệu lực của nó thì nằm nơi khả năng nó được tiếp nhận bởi cộng đoàn đức tin.  Đây là nền tảng của “học thuyết tiếp nhận” (reception theory). Nhiều thế hệ qua lịch sử đã tiếp tục đón nhận, giải thích và mang ý nghĩa của Kinh Thánh vào trong bối cảnh của mình. Vì thế, mạc khải Tin Mừng mang tính thông diễn, mỗi thế hệ Kitô hữu sẽ tiếp nhận mặc khải khác nhau tùy theo bối cảnh của mình. Mỗi bản Tin Mừng (Mc, Mt, Lc, Ga) cũng là một sự tiếp nhận hay thông diễn tới lui giữa Cựu Ước và Biến cố Kitô, qua bối cảnh đức tin của mỗi cộng đồng chú giải. Như thế, sự đa dạng của các bản Tin Mừng cho chúng ta sự phong phú về ý nghĩa của biến cố Kitô.

Tuy nhiên, học thuyết chú giải của Schleiermacher còn nhiều thiếu sót. Liệu kỹ thuật nhập tâm có thể lột trần mọi động lực ẩn khuất của tác giả và bản văn không? Liệu độc giả có thể bước vào tiến trình nhập tâm một cách vô tư không? Liệu tính sáng tạo của bản văn có thật sự phản ánh một tâm hồn tự do và lành mạnh, nhất là trong trường hợp mạo văn hay mạo danh? Schleiermacher đặt nặng về cá tính của tác giả, nhưng ý nghĩa của văn chương truyền khẩu (ca dao và tục ngữ) cũng không kém phong phú cho dù thiếu tác giả cụ thể. Chúng ta có thật sự hiểu tác giả “hơn” tác giả hiểu chính mình không? hay chỉ hiểu “khác” tác giả thôi (Paul Ricoeur)? Một khi tác phẩm thoát khỏi ngòi bút của tác giả thì ỳ nghĩa của nó trở thành bất định (Jack Derida), vậy thì vai trò của tác giả có quan trọng không? Ngôn ngữ không phải là một hệ thống đóng kín, nhưng luôn mở ra với chân trời vô hạn của cách dùng (Wittgenstein).

CÁC VẤN ĐỀ TỒN ĐỌNG

Một giả định chung trong việc chú giải Kinh Thánh là cuối cùng chân lý mạc khải sẽ được tìm thấy nơi các bản văn, vì đó là lời đã được linh ứng. Nhưng khi nghiên cứu về chú giải trở nên đa dạng và chuyên sâu hơn, thì nó cũng có nguy cơ trở thành môn bình phẩm văn học, khảo cổ học, văn hóa học hay sử liệu học. Giả định chung của các khoa học này là ý nghĩa nguyên thủy của bản văn sẽ được khôi phục lại cách chính xác. Nhưng giả định này là sai lầm vì chúng ta không bao giờ có thể hoàn toàn tái thiết lịch sử như nó đã xảy ra mà không bao hàm các tiên kiến của mình trong đó. Phương pháp bình phẩm lịch sử coi nhẹ tính đa nghĩa của ngôn ngữ và khả năng tiếp nhận đối với bản văn. Cách người đọc tiếp nhận bản văn thì đã mang một lịch sử chú giải của các bản văn cổ điển trên quan điểm của người đọc rồi.

Hơn nữa, có một não trạng tương đối nếu chỉ giới hạn tính linh ứng trong bối cảnh nguyên thủy của bản văn như một số người cho rằng mạc khải chấm dứt sau khi các môn đệ cuối cùng của Chúa Giêsu qua đời. Đức Giáo Hoàng Benedict XVI chỉ ra nguy cơ việc nghiên cứu lịch sử các tín điều (history of dogma) trở thành một “giáo điều lịch sử” (dogma of history). Lịch sử không phải là tiêu chuẩn độc nhất để khẳng định chân lý của mạc khải, nhưng cần phải có sự quân bình giữa tính vẹn toàn của mạc khải Kinh Thánh, sự linh ứng tiếp diễn trong truyền thống Giáo hội, như được thấy nơi các tín điều về Đức Mẹ (1854 &1950).

Tân Ước giả định tính linh ứng của Lời Chúa, nhưng không giải thích tiến trình linh ứng đã xảy ra như thế nào. Trong quá khứ, linh ứng được hiểu như Thiên Chúa soi sáng các thánh sử viết ra bản văn, như Thiên Chúa gợi ý và tác giả đóng vai thư ký. Công Giáo nhấn mạnh vào linh ứng về nội dung, còn Tin Lành nhấn mạnh về ngôn ngữ của Kinh Thánh. Cách hiểu biết này giúp phân biệt giữa nội dung và hình thức của mạc khải. Nhưng ngày nay, học thuyết linh ứng được mở rộng và bao gồm cả truyền thống và lịch sử tiếp thu của bản văn. Ví dụ, qua trải nghiệm Phục Sinh, các môn đệ nhận ra tính linh ứng của các biến cố “Xuất Hành” và “Vượt Qua” của Cựu Ước. Linh ứng của Kinh Thánh là một triến trình liên tục của hành trình chú giải bản văn qua nhãn quan chú giải của trải nghiệm hiện tại.

Một nguy cơ khác nữa là khi việc chú giải Kinh Thánh chỉ lưu tâm về việc bảo vệ chân lý tuyệt đối của bản văn thì rất dễ bị rơi vào não trạng duy cơ bản (fundamentialism). Đây là một sự phản bác bằng cách rút lui vào trong vỏ bọc kiên cố và bảo thủ. Ngay từ lúc đầu, Giáo Hội luôn tôn trọng tính đa dạng và phong phú về ý nghĩa của các bản văn Kinh Thánh, như được thấy khi Tertulianô lên án thói quen chỉ chấp nhận nghĩa đen của bản văn nơi các nhóm Ngộ Giáo. Cho dù chủ thuyết duy cơ bản muốn giải thích Kinh Thánh một cách đơn sơ và giản dị, nhưng chính nó đang bị thao túng bởi khuynh hướng bảo thủ trong các cộng đoàn Kitô giáo nơi nó xuất phát.

Cuối cùng, tiền kiến hay tiền thức của người chú giải đóng vai quan trọng trong việc chú giải như  Thánh Augustinô đã nói về tâm hồn thanh sách và sự khao khát điều thánh thiện. Ngày nay, thần học Giải phóng nhấn mạnh sự đồng cảm và hiệp thông với đau khổ hay áp bức như là điều kiện để hiểu ý nghĩa giải phóng của Tin Mừng. Gadamer chỉ ra ảnh hưởng của những bản văn cổ điển khác lên chân trời tri thức của bất cứ ai tiếp cận một tác phẩm mới. Riceour cho thấy khoảng cách giữa bản văn và người đọc là điều kiện thiết yếu để ý nghĩa được phát triển qua sự giao thoa của các truyền thống chú giải. Habermas lưu tâm về thái độ phẻ phán thiết yéu cho nhận diện về ý thức hệ tiềm tàng trong bản văn hay trong tiến trình chú giải. Ý nghĩa của tác phẩm thuộc về truyền thống lịch sử vốn tiếp thu nó sau khi thoát ra khỏi ngòi bút của tác giả, thì tiền kiến và tiền thức của người chú giải luôn nằm trong quỹ đạo của vòng tròn giải thích giữa bản văn và người đọc. Một tác phẩm trở nên “cổ điển” là do nó đã dấy lên những nỗi thao thức nơi các thế hệ sau đó, và liên tục được đón nhận. Thế thì, chú giải Kinh Thánh là một hành trình liên tục và không có đoạn kết.

Joseph Tân Nguyễn, ofm

Tài liệu tham khảo:

Joseph Tân Nguyễn, Thông Diễn Học. NXB Đồng Nai, 2021

F.D.E. Schleiermacher. Hermeneutics. The Handwritten Manuscript. Heinz Kimmerle, ed. Missoula Scholar Press, 1977.

David Tracy & Robert Grant, A Short History of the Interpretation of the Bible. Fortress Press. Revised & Enlarged edition (1988)

Every Dulles. “Hermeneutical Theology”, Communio 6 (Spring 1979).

Hans-George Gadamer. Philosophical Hermeneutics. David E. Linge dịch. University of California Press, 1976,

 



[1] https://en.wikipedia.org/wiki/De_doctrina_Christiana

Nguồn tin:
Tags :