Các Tông Phụ Và Vấn Đề “Bầu Cũ & Rượu Mới”

Thu,14/03/2024
Lượt xem: 167

CÁC TÔNG PHỤ VÀ VẤN ĐỀ “BẦU CŨ & RƯỢU MỚI”

Lược sử chú giải Kinh Thánhk, tiếp theo…

“Biến cố Kitô” đã để lại những chấn động trên cuộc sống của các môn đệ và các thế hệ Kitô hữu sau đó. Sách Tông Đồ Công Vụ ghi lại sự hăng say, nóng lòng muốn lan truyền cho thế giới về một Thần Khí Mới đang phát sinh nơi cộng đồng những người mới chịu Phép Rửa. Tuy nhiên, sự hăng say này đã mang lại nhiều phản ảnh tiêu cực từ các lãnh đạo Do Thái giáo. Sau khi Giêrusalem bị quân đội Rôma phá hủy, người Do Thái trở nên thù nghịch hơn với các Kitô hữu và đã khai trừ họ ra khỏi hội đường. Nhưng các Kitô hữu vẫn luôn kiên trì, xem lời hứa cứu rỗi của dân Do Thái cũng là lời hứa cho chính mình, và muốn giữ sự liên tục giữa Kinh Thánh và “biến cố Kitô”, vì cả hai cùng đến từ một Thiên Chúa. Có những nhóm Ngộ giáo (Gnostics) quá khích, muốn hoàn toàn loại bỏ “bầu cũ” một khi đã có “rượu mới”, trích xuất các Thư của Phaolô để hỗ trợ cho việc họ lên án linh đạo lề luật Cựu Ước. Đó là chưa kể những cuộc bắt đạo đẫm máu mà Giáo Hội sẽ gánh chịu. Vì thế, sẽ cần thời gian và ơn soi sáng của Thần Khí để tạo một hợp đề “công giáo” thích ứng cho bối cảnh này. Các Tông Phụ tiên phong như Inhaxiô và Barnaba, Marcion và Justinô, cũng như Plôtêmê và Valentinô là những vị tiên phong, nhưng Irênê mới là người đã xây dựng nền tảng linh ứng của Tân Ước với truyền thống của Giáo Hội. Tính vẹn toàn của mặc khải này sẽ là nền tảng cho sự hình thành của thư quy “Tân Ước”.

Các Tông Phụ giải quyết vấn đề vẹn toàn của Lời Chúa

Thời các Tông Phụ, khái niệm “Tân Ước” vẫn còn linh động. Đối với những Kitô hữu gốc Do Thái, “biến cố Kitô” là sự ứng nghiệm của lề luật và ngôn sứ. Nhưng các Kitô hữu gốc Hy Lạp không mang cùng tâm thức lịch sử về “Vượt Qua”, “Xuất Hành”, “Sa Mạc” hay “Đất Hứa” như người Do Thái, cho nên khái niệm “ứng nghiệm” của Cựu Ước không đóng góp gì cho đức tin của họ. Việc tuân giữ lề luật cũng gây tranh cãi giữa các cộng đoàn truyền giáo. Một bên cho rằng: “Đức Giêsu đến để hoàn thiện lề luật. Không một dấu, một vết của lề luật có thể bị bỏ qua” (Mt 5,18). Còn bên kia thì quả quyết: “Đức Giêsu đến để giải thoát chúng ta khỏi lề luật, do đó chúng ta được tự do sống theo Thần Khí và ân sủng” (2 Cr 3,4-6). Giữa hai thái cực này còn có nhóm Ngộ giáo với linh đạo cuồng tín vốn không phù hợp với tính “công giáo” của đạo mới. Với tác phẩm “Tông Đồ Công Vụ”, cộng đồng Kitô hữu bắt đầu gom lại các thư của Phaolô và các Tông Đồ để truyền nhau đọc trong các buổi phụng vụ. Tuy cùng chia sẻ chung một niềm tin rằng “mặc khải Kitô” thì siêu việt hơn mặc khải của Cựu Ước, nhưng vẫn còn đó sự khác biệt về cách kết nối “bầu cũ” với “rượu mới”. Chúng ta sẽ sơ lược qua các quan điểm của một số tông phụ trước khi đi vào nguyên tắc linh ứng dựa trên thẩm quyền của Irênê

Inhaxiô, Barnabas và Marcion

Inhaxiô (c 108) trên đường bị truy điệu về Rôma để chịu án tử hình đã viết bảy lá thư mục vụ khuyên bảo các cộng đoàn Kitô hữu giữ vững đức tin.[1] Qua đó, ngài đã để lại một nguyên tắc quan trọng về việc chú giải Lời Chúa. Một số Kitô hữu tại Philadelphia cho rằng, nếu không tìm thấy “bản văn” Kinh Thánh trong các “Thư” thì chúng không thể thuộc về Tin Mừng. Phản hồi lại thái độ quá lệ thuộc vào Cựu Ước này, Inhaxiô giải thích rằng “Bản Văn” được mặc khải chính là Đức Giêsu Kitô, công cuộc cứu độ và đức tin phát xuất từ Người. Vì Kinh Thánh được viết về Đức Kitô, nên ý nghĩa thư quy phải là hiện thân và là sứ vụ Nước Trời của Người. Như thế, Inhaxiô đã giới thiệu một nguyên tắc linh ứng dựa trên quan điểm Kitô luận.

Nguyên tắc Kitô luận cũng được Barnabas(70-132)[2] dùng để biện phân tính chân thực của “Lời Chúa”, nhưng đã đưa đến kết luận hơi thái quá. Barnabas cho rằng, vì người Do Thái đã hiểu sai những hình bóng về lịch sử ơn cứu độ; do đó, không có lý do gì mà Kitô giáo cần phải viện đến lời giao ước cũ, để giải thích cho ý nghĩa về sự trọn vẹn hay hoàn tất của lời giao ước mới, chính là Đức Kitô. Barnabas muốn cắt đứt mối liên kết giữa hai lời giao ước và cách dùng lịch sử Cựu Ước để minh họa cho mặc khải Kitô giáo.

Marcion (85-160) thuộc phái Ngộ giáo, nhấn mạnh tính đối nghịch giữa lề luật và ân sủng thường được thấy trong các thư mục vụ của Phaolô.[3] Dựa trên quan điểm nhị nguyên này, Marcion phân biệt Thiên Chúa Công Chính (Lề luật và Do thái giáo) với Thiên Chúa Thiện Hảo (Cha của Đức Kitô). Sự mới mẻ của Tin Mừng đã loại bỏ tính thô lỗ hay cục mịch của Cựu Ước. Những nhân vật như Cain, dân thành Sôđom, dân Ai Cập và những kẻ gian tà khác đều đến với Đức Kitô để mong được cứu rỗi; thế nhưng, vì dựa trên sự công chính, họ đã bị loại trừ. Chỉ có ân sủng và đức tin mới cứu độ. Marcion dùng thuyết ân sủng của Phaolô để cắt đứt mối tương quan giữa hai lời giao ước vốn xuất phát từ cùng một Thiên Chúa.

Justinô, Ptôlêmê và Valentinô

Justinô (100-162) là nhà biện giáo đưa đã tạo nền tảng cho quan điểm mặc khải của Giáo Hội sơ khai. Ngài phản đối sự tách biệt giữa Cựu Ước và Tân Ước và cho rằng Thiên Chúa của Cựu Ước cũng là Thiên Chúa của Tân Ước, và chính Người cũng (được mạc khải) là Cha của Đức Kitô. Không có Cựu Ước thì cũng sẽ không có Tân Ước. Tất cả các ngôn sứ trong Cựu Ước lẫn triết gia Hy Lạp đều là chứng nhân cho Thiên Chúa và thuộc cùng một gia tộc Kitô hữu, nhưng với cấp độ mặc khải khác nhau. Có một mối tương quan giữa Lề luật và linh đạo Kitô giáo, cũng như giữa các ngôn sứ và sự mong chờ vào sự hoàn tất của lời tiên tri. Các tổ phụ Do Thái vẫn được cứu rỗi, nhưng không cần phải cắt bì, giữ ngày Sabat hay luật lệ về ăn uống và của lễ hiến tế; bởi vì, hai biến cố cuộc khổ nạn và sự (phục sinh) vinh quang của Đấng Mêsia đã được Cựu Ước tiên báo. Justinô đã ra công bảo tồn Cựu Ước cho Kitô giáo, nhưng cách dùng phương pháp tiên trưng của Justinô hơi lỏng lẻo và khó minh chứng các lời tố cáo rằng một số bản văn nói đến mặc khải Kitô giáo trong Cựu Ước đã bị người Do Thái cắt bỏ.

Một cách liên kết lịch sử khác đến từ Ptôlêmê (100-170)[4] thuộc phái Ngộ giáo. Ptôlêmê cho rằng mặc khải Cựu Ước (lề luật) thì không hoàn toàn do Thiên Chúa mà một số đến từ con người vì nhu cầu đặc biệt của dân Do Thái. Còn “luật tình yêu” trong Tân Ước thì do chính Đức Kitô, Con Thiên Chúa ban cho chúng ta. Luật Thiên Chúa thì hoàn hảo, nhưng cách giải thích chúng thì bất toàn, cần phải hoàn thiện bởi Đấng Cứu Độ, Người đã cải biến thực tại khả giác thành những thực tại thiêng liêng và vô hình. Lề luật Do Thái cần được mặc lấy ý nghĩa thiêng liêng, như thánh Phaolô đã tuyên bố: “Đức Kitô, cuộc vượt qua của chúng ta đã hiến tế cho chúng ta” (1 Cr 5,7). Với lý luận này, việc chú giải Kinh Thánh không phải cắt bỏ truyền thống, nhưng cần biện phân các thực tại thiêng liêng và vô hình tiềm tàng trong đó.

Mặt khác, Valentinô (100-180)) đại diện cho giới trung lưu có hiểu biết nhiều về triết lý Hy Lạp[5]. Ông có thái độ cứng rắn hơn về mối tương quan giữa Cựu Ước và Tân Ước khi trích dẫn Gioan 10,8: “Mọi kẻ đến trước tôi đều là trộm cướp.” Cựu Ước chỉ là một cuốn sách tầm thường với luật lệ bất cập, mâu thuẫn và đôi khi bất nhân. Thiên Chúa của Do Thái giáo không được giới triết gia Hy Lạp tôn trọng, nhưng thời đó Giáo Hội chưa có cách đáp ứng thích đáng cho vấn đề này. Phaolô và tác giả của “Thư Do Thái” chỉ thỏa mãn nhu cầu cập nhật đức tin cho các tín hữu nội bộ; nhưng cấp bách hơn là nhu cầu cần lý giải đức tin cho những kẻ bên ngoài, nếu Giáo Hội muốn tiếp tục sứ mệnh truyền giáo của mình.

Irênê (130–202): vai trò của thánh truyền và thẩm quyền Giáo hội

Irênê, Giám mục người Hy Lạp ở Lyon, đưa ra “nguyên tắc tông truyền”[6] khi giải thích đức tin Kitô giáo cho dân ngoại và vạch trần các sai lầm của Valentinô và Marcion. Trong khi các nhóm Ngộ giáo phân biệt tính thứ cấp của Thiên Chúa Cựu Ước so với Thiên Chúa của Tân Ước, thì Irênê lý luận rằng chỉ có một Thiên Chúa vốn đã mặc khải qua cả hai lời giao ước. Lề luật trong Cựu Ước là thật và đúng cho thời đại của nó, nhưng Thiên Chúa trong Tân Ước đã hài lòng với cách mặc khải mới qua sự hiện diện của Con Thiên Chúa, Đức Kitô. Lề luật hay lời ngôn sứ tự nó không chứa đựng lời giải thích. Nhưng với “biến cố Kitô”, lề luật và lời ngôn sứ được xem như là những báu vật chôn cất từ lâu, nay được khám phá qua Thánh Giá của Đức Kitô và đã được giải thích sau biến cố Phục sinh (x. Lc 24,27). Từ nhãn quan lịch sử tính của mặc khải, Irênê đã tìm một hợp đề mới cho cả hai lời giao ước.

Ngoài ra, Irênê cón vạch ra khuynh hướng “lấy râu ông này gắn cằm bà nọ” khi phái Ngộ giáo ráp nối hình ảnh trong truyện thần thoại Hy Lạp với hình ảnh về Chúa Cha, Thánh Linh và Đấng Nhập Thể. Irênê lên án cách pha trộn những giai thoại Eliad và Odyssey vào Kinh Thánh là tạo nên những đám hỏa mù, che dấu linh đạo mờ ám và bí ẩn của phái Ngộ giáo, và là một sự lừa đối với những kẻ có kiến thức về Homer. Lối chú giải ẩn dụ của Irênê căn cứ trên “quy phạm của đức tin”. Sứ mệnh loan báo Tin Mừng được Thiên Chúa giao phó cho Giáo Hội, do đó chân lý chỉ được tìm thấy nơi Giáo Hội. Triết học có thể cung cấp nhiều cách giải thích đáng tin cậy và cũng đáng hoài nghi; thế nhưng, chân lý thì luôn ở trong sự quan phòng của Thiên Chúa. Lời giáo huấn của các Tông Đồ, do tính tông truyền của các vị giám mục kế vị, là sự hiểu biết chân chính nhất. Muốn tìm ý nghĩa chân thực của Kinh Thánh, thì hãy đọc Kinh Thánh với các vị giám quản vốn được giáo huấn theo qui luật của đức tin Công giáo.

Như thế, Irênê đã làm nổi bật yếu tố thẩm quyền của truyền thống trong việc chú giải Kinh Thánh. Giáo Hội không tạo nên Tin Mừng, nhưng qua sự linh ứng của Thần Khí, Giáo Hội đã mang Tin Mừng vào sự tồn tại của nó như một bản văn. Tin Mừng là cuốn sách mà Giáo Hội đã chọn giữa các trình thuật về Đấng Sáng Lập và nguồn gốc của chính mình. Do đó, không thể tách biệt thẩm quyền của Giáo Hội ra khỏi việc chú giải Kinh Thánh. Irênê là thần học gia đầu tiên bảo vệ tính linh ứng của Tân Ước trên nền tảng thánh truyền. Bản văn Kinh Thánh không thể tự chú giải chính mình, nhưng chúng ta đọc và giải thích Kinh Thánh cho phù hợp với nhu cầu đức tin của Giáo hội. Chú giải là mang mạc khải Kinh Thánh vào hiện tại bằng ngôn ngữ của mình, và đó chính là sự thể hiện và phát huy tiệm tiến của truyền thống, vốn được tích tụ từ những bài học khôn ngoan qua hành trình sống Lời Chúa. Là một lịch sử phê phán, truyền thống Giáo hội có thẩm quyền trên cách chúng ta chú giải và sống mầu nhiệm đang mạc khải cho chúng ta.

Joseph Tân Nguyễn, ofm

 

 



[1] https://www.ccel.org/ccel/lake/fathers2.html

[2] https://en.wikipedia.org/wiki/Epistle_of_Barnabas

[3] https://pursuingveritas.com/2015/05/19/the-marcion-problem-irenaeus/

[4] https://www.biblestudytools.com/dictionary/ptolemaeus/

[5] https://www.britannica.com/biography/Valentinus

[6] “Về cách nhận diện và đả phá các tri thức ngụy biện” (180 CN),

 
Nguồn tin:
Tags :