THÁNH BỘ TRUYỀN BÁ ĐỨC TIN
TÀI LIỆU
MONITA AD MISSIONARIOS - NHẮN NHỦ CÁC THỪA SAI
CÔNG ĐỒNG YUTHIA 1664
Tác giả: François Pallu - Lambert de la Motte
Bản dịch của Giáo phận Kontum
Vào đầu thế kỷ XVII, sau khi thành lập Thánh Bộ Truyền Giáo (1622) Giáo Hội bày tỏ ước vọng mãnh liệt thúc đẩy việc truyền giáo. Đồng thời Tòa Thánh muốn giành lại việc điều hành xứ truyền giáo mà trước đây Đức Alexandre VI đã giao độc quyền cho hai nước Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha, từ hiệp ước Tordesillas (1494). Tòa Thánh hân hoan đón nhận các đề nghị của Linh Mục Alexandre de Rhodes dòng Tên, khi ngài đến Rôma khoảng năm 1650. Mục đích của ngài là để biện hộ cho việc gửi các Giám Mục đến Á Châu. Họ sẽ lãnh trách nhiệm đào tạo hàng giáo sĩ bản địa nhằm bảo đảm việc coi sóc các bổn đạo và đủ khả năng sống còn trong thời buổi bách hại. Nhưng lúc đó, Bộ Truyền Giáo không được sự ủng hộ lẫn thiếu phương tiện, và các Giáo Hoàng vẫn ngần ngại không dám quyết định, sợ gây ra xung đột với các nước Tây và Bồ.
Vào năm 1653, Alexandre de Rhodes đến Pháp để truyền bá ý định của mình. Sự biện hộ cho việc cử các Giám Mục đến Á Châu được đón nhận nhanh chóng và mang lại một sự thành công thấy được nơi hàng giáo sĩ ở Paris. Ngài cũng tìm được những người tình nguyện đến từ các giáo sĩ trẻ của Hội Ái Hữu. Các thành viên của Dòng Thánh Thể, từ lâu nay vẫn mong mỏi cộng tác vào công cuộc truyền giáo, quyết định dùng ảnh hưởng và phương tiện của mình thực hiện dự án tốt đẹp này. Họ gửi các đơn thỉnh cầu lên các Đức Innocent XI và Alexandre VII. Các Giám Mục và giáo hữu ở nước Pháp cũng đã can thiệp vào. Một cuộc vận động cuối cùng của Dòng Thánh Thể và của Hội Ái Hữu đi đến chỗ thuyết phục được các Hồng Y ở Bộ Truyền Giáo: Bốn vị Giám Mục được bổ nhiệm với tước hiệu Giám Mục Tông Toà. Đó là các Đức cha Francois de Laval Montmorency, Đức cha François Pallu, Đức cha Lambert de la Motte và Đức cha Ignace Cotolendi. Một trong bốn vị trên là Đức cha Francois de Laval Montmorency, đã được cử đến Canada với tư cách là Giám Mục Tông Tòa. Chính ngài đã đóng góp rất nhiều vào việc thành lập Chủng viện của Hội thừa sai Balê, nhưng sau đó xứ truyền giáo Canada được tách ra để hoạt động độc lập. Ba vị Giám Mục Tông Toà còn lại thì lên đường sang Á Châu. Đức cha Fr. Pallu làm Giám Mục Tông Toà Đàng Ngoài, kiêm các tỉnh của Trung Hoa giáp ranh (xứ Đàng Ngoài); Đức cha Lambert de la Motte làm Giám Mục Tông Toà Đàng Trong kiêm các tỉnh Miền Nam Trung Hoa; Đức cha Ignace Cotolendi làm Giám Mục Tông Tòa Nam Kinh, kiêm các tỉnh phía Đông Trung Hoa, xứ Tartarie và Triều Tiên. Trước khi lên đường nhận nhiệm sở, các vị đã nhận được từ Đức Alexandre VII những chỉ thị rất chính xác trong Huấn dụ năm 1659. Tựu trung có 3 điểm chính: Thiết lập hàng giáo sĩ bản địa càng đông cũng như được đào tạo càng kỹ lưỡng càng tốt; Khả năng thích nghi với phong tục tập quán địa phương; Và không được có quyết định quan trọng nào khi chưa tham khảo với Rôma.
Đức cha Lambert de la Motte rời nước Pháp vào tháng 6.1660, còn Đức cha Cotolendi khởi hành vào tháng 7.1661. Cuối cùng Đức cha Pallu cũng lên đường vào ngày 3 tháng 01 năm 1662. Mỗi GM đều có thêm một số Linh Mục và giáo dân đi theo. Tính tổng cộng có 17 vị thừa sai (Giám mục+ Linh mục + giáo dân) đã rời nước Pháp để đến Á Châu. Tám vị đã chết dọc đường, trong số đó có Đức Cha Cotolendi và ngài được chôn cất ở bờ biển Đông Ấn. Những vị sống sót cuối cùng đã tới được Ayuthaya, thủ đô Vương Quốc Siam, một trong những vùng hiếm hoi mà người ngoại quốc có thể cập bến an toàn.
Các vị Giám Mục Tông Toà này được coi như những sáng lập viên của Hội thừa sai Balê. Trước khi rời nước Pháp, họ đã không tự đặt ra cho mình những qui tắc ứng xử và cũng không vạch ra những luật lệ cho những vị thừa sai đồng hành. Họ vừa không biết ngôn ngữ địa phương, vừa không có kinh nghiệm về cuộc sống truyền giáo lại không am tường não trạng các sắc tộc mà họ sẽ gặp. Do đó họ chờ đến khi tới được nhiệm sở rồi mới đưa ra những điều lệ đã được thỏa thuận chung “để mỗi người tuân giữ dễ dàng hơn những điều mà chính mình đề ra hoặc ít ra đã được phê chuẩn”.
Trước tiên họ đã tìm nguồn cảm hứng trong việc tĩnh tâm và sám hối, họ cầu nguyện, ăn chay trong nhiều ngày, khai mạc các cuộc họp bằng việc cử hành thánh lễ cầu xin Chúa Thánh Thần, tiếp đến họ phân phát các đề mục sẽ được bàn thảo và không quên dặn dò “Mỗi người hãy củng cố tất cả các phương châm và các quyết định về các đề mục này dựa vào Kinh Thánh, Giáo Luật và các Hiến Chế của các Đức Giáo Hoàng, học thuyết của các Giáo Phụ, dựa theo hạnh các thánh, nhất là hạnh thánh Fr. Xavier”. Từ những công việc được thảo luận chung và được phối hợp chặt chẽ này, một quyển sách đã ra đời với nhan đề: Những Chỉ Dẫn để chu toàn nhiệm vụ Tông đồ, rất có ích cho các xứ truyền giáo Trung Hoa, Đàng Ngoài, Đàng Trong, Siam. Những chỉ dẫn này được soạn thảo do các vị thừa sai thuộc Thánh Bộ Truyền Giáo tại Ayuthaya, thủ đô Vương Quốc Siam.
Thần học gia lỗi lạc Jean Bonna, cha sở St. Bernard, kiêm cố vấn thần học Thánh Bộ đã tuyên bố rằng: Quyển Monita “Tràn đầy tinh thần tông đồ, phù hợp với đức tin truyền thống Công Giáo và cần thiết cho các Linh mục đang làm việc tại các giáo xứ truyền giáo vì phần rỗi những người chưa tin”. Đức Clément IX đã phê chuẩn cuốn sách này kèm theo lời khen ngợi và được Bộ Truyền Giáo cho xuất bản năm 1669. Sau đó, cuốn Monita được tái bản nhiều lần tại nhà in của Bộ Truyền Giáo, và kể từ cuối thế kỷ XIX, được in lại từ nhà in của Hội thừa sai Balê tại Hồng Kông. Hội thừa sai Balê xuất bản lần đầu năm 1893 dưới nhan đề ngắn gọn: “Monita ad Missionarios S. Congregationis de Propaganda Fide” Những Chỉ Dẫn cho các vị thừa sai của Bộ Truyền Giáo.
Vào năm 1920, cha Albert Geluy, thừa sai thuộc Dòng Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ (Scheut), đã dịch cuốn Monita sang tiếng Pháp. Bản dịch này, vẫn giữ nguyên vẹn giá trị và được giữ nguyên trong lần tái bản này.
Ước gì cuốn Monita, trước đây được dùng như cẩm nang cho các Linh mục thuộc Hội thừa sai Balê, từ thế kỷ XVII, nay vẫn còn là sức mạnh dẫn đường cho các vị truyền giáo trên khắp thế giới.
* * *
Tại sao lại đi tái bản một bản văn đã ra đời hơn 3 thế kỷ trước? Và trên nữa, lại vào một thời kỳ bị ám ảnh bởi cái mới, bởi cái nhìn về tương lai, “cho dù ngay cả khi ta gợi lại hình ảnh tự tin của cụ bà khéo léo pha café hay nét mặt của bà mẹ giỏi dọn sẵn những thứ mứt ngon như xưa”. Có phải ta muốn chứng minh cho sự quyến luyến không suy xét, không đắn đo và phi lý vào quá khứ? Và qua đó, không đánh giá đúng sự cần thiết của đường lối canh tân do Giáo Hội khởi xướng tại Công Đồng Vat II? Và đối với những vấn đề có liên quan đến công việc truyền giáo, có phải như vậy là không biết đến những đòi hỏi cấp bách của vấn đề mà người ta gọi là Hội Nhập Văn Hóa, không thèm để ý đến những yêu sách chính đáng của các Giáo Hội địa phương đang đi tìm cho mình một bản sắc văn hóa đặc thù?
Nhưng có lẽ ta cần nhìn đến một khía cạnh khác. Đó chính là hiểu rõ hơn về lịch sử, về thân phận mỏng giòn chóng qua của chúng ta, về mối giao lưu giữa các nền văn hoá, các nền văn minh và các tôn giáo khác nhau, trong khi ta vẫn ý thức đây là một cuốn sách được viết vào một thời điểm quan trọng trong lịch sử của chúng ta. Có lẽ chúng ta bị tiêm nhiễm một cách vô thức bởi một ý thức hệ sai lạc và ngây ngô chỉ coi thời gian như sự tiến bộ. Lévi-Strauss có lý khi tố cáo ý thức hệ này như là gắn bó với chủ nghĩa phân biệt chủng tộc trong quyển tiểu luận của ông dưới nhan đề: “Chủng tộc và Lịch sử”. Các nhà kinh viện thời Trung Cổ, thường bị coi là những kẻ tôn sùng các tác giả xưa, cũng có thái độ tinh tế hơn khi nhận định rằng: “Chúng ta sẽ không bao giờ tìm thấy chân lý nếu chúng ta hài lòng với việc đặt những bước chân của chúng ta vào những dấu chân của người đi trước. Chúng ta nhìn xa hơn họ, bởi lẽ chúng ta là những người lùn đứng trên vai những người khổng lồ”.
Cứ nghĩ trung thực là theo kiểu lập lại hoặc sao chép lại, thì không biết gì về trung thực cả. Cho rằng cứ gạt phăng quá khứ, thì cũng coi như tự huỷ hoại tay chân mình và đắm mình vào ảo ảnh. Ngày nay khi tiếp xúc với bản văn do các sáng lập viên của chúng ta biên soạn, chúng ta không có chủ đích lưu giữ một quá khứ bằng cách lập lại nó. Đồng thời chúng ta cũng không muốn tranh cãi những thiếu sót hoặc những gì chưa thỏa đáng của nó, chúng ta chỉ đảm trách tiến trình mà cha ông chúng ta chưa hoàn thành, với óc phê bình và xây dựng. Lịch sử luôn vận hành và trong lịch sử chỉ có chân lý khi đã được tiên đoán và chỉ có sự vô tội khi đã được tha thứ.
Đức tin, sự lắng nghe và đón nhận Lời Chúa đã được thực hiện nơi Đức Giêsu luôn gắn liền với thời đại, sẽ giúp ta hướng về tương lai, về bản ngã tự do của chúng ta bằng cách vận dụng mọi tiềm năng không ngừng được ban phát cho chúng ta. Nếu đức tin là đón nhận Lời Chúa thì nó rất dễ hiểu và gần gũi với biểu tượng của hạt giống gieo vào lòng đất. Ở đây ta phải cảnh giác với cả tham vọng muốn đồng hóa hạt giống với những hình thức nảy mầm, lẫn quyết đoán cho rằng mùa gặt đã xong. Cuốn sách của chúng ta được ra đời từ một khởi xướng và từ một sự liều bước khó khăn trong một giai đoạn lịch sử mà nó không khởi đầu cũng không kết thúc. Cái bất hủ mà ta còn khám phá trong cuốn sách chính là lời mời gọi tiếp tục cuộc hành trình trong lịch sử má nó chỉ chứng thực chứ không khởi xướng. Đối với con người, cái vĩnh cửu có vị trí của nó trong cái nhất thời, cũng như cái phổ quát có chỗ đứng của nó trong cái đơn chiếc và cái đặc thù. Một lối nhìn như thế đòi hỏi phải có sự rành mạch và biện phân nhưng không được tách biệt. Khi đưa Lời Chúa vào thời gian, Đức tin trở thành nguồn mạch của sự vĩnh cửu, cũng như khi đưa Lời Chúa vào cái cá biệt thì Lời Chúa trở nên căn nguyên đưa đến sự cởi mở và gặp gỡ. Mỗi dân tộc đều có khuynh hướng đồng nhất hoá mình với mẫu chung CON NGƯỜI, cũng như đồng nhất hoá văn hoá riêng của mình vào nền VĂN HÓA phổ quát, tôn giáo của mình vào nền TÔN GIÁO chung, trong khi ta lại quên rằng: Con người vượt qua con người, không có định nghĩa nào diễn tả đúng mức của nó được. Sự đón nhận Lời Chúa phải dẫn đưa con người, không phải đến chỗ thần thánh hoá sự hiểu biết sẵn có, coi nó như một sự tuyệt đối, trái lại phải sẵn sàng lắng nghe. Mọi Hòa nhập văn hoá đều có giới hạn. Không có và cũng không thể có một nền “Văn Hoá Kitô Giáo”, hay nói cách khác, không có sự diễn dịch tương xứng với Lời Chúa. Tất cả các nền thần học đều bị tiêm nhiễm bởi ý thức hệ và bị giằng co với cái mà nó đang kiếm tìm...
Một trong những giá trị không phải là nhỏ của cuốn sách trên là biến sự cầu nguyện thành những đôi tay chắp lại, biết từ bỏ sự chiếm đoạt, biến sự suy gẫm Tin Mừng không bao giờ được hiểu cách thỏa đáng thành nguồn phê bình và nguyên lý của mọi công cuộc rao giảng. Ta còn phải tránh chen vào chữ “cầu nguyện” những khuôn mẫu tưởng như quen thuộc.Cầu nguyện, mà ta muốn nói ở đây, phải làm bật lên một cung cách khi đối diện với Tin Mừng, Lời đã được gieo mà mảnh đất đón nhận chính là con người với lý trí và những tiềm năng có thể có được trong hành trình...
Hoàn toàn không có đối nghịch giữa công việc trí thức nhờ vào những công cụ và phương thức phải dùng với thái độ đức tin và chiêm niệm. Để lấy lại một tham chiếu đã trở thành khuôn mẫu: Những ý tưởng “tuyệt cú mèo” của triết gia thường bay lượn khi màn đêm buông xuống, và bà Maria cũng chẳng kém phần “tích cực” so với bà Martha. Những Giám Mục Tông Toà coi việc học và thấu đáo những ngôn ngữ, những nền văn hoá và các tôn giáo, như là một mệnh lệnh tuyệt đối. Vậy mà cũng chẳng thiếu kẻ cho rằng những điều nói trên là những đòi hỏi mới có đây, và như thế tự biến mình thành trò cười, vì tưởng rằng mình sáng chế ra “dây lạt cắt bánh chưng”. Có lẽ nền thần học Tây Phương đã kém hiểu biết hoặc đánh giá thấp thuyết lấy chủng tộc mình làm nôi văn hoá (vd: Trung Hoa), trong khi chính nền thần học này cũng rất giống với thuyết trên mà không hay và vẫn con tiếp tục cổ võ...
Ưu tư của các Giám Mục Tông Tòa là muốn tách việc truyền giáo ra khỏi những việc thương mại. Lý do là muốn bày tỏ và duy trì tính ưu việt và nhưng không của Tin Mừng. Phải thấy ở đây là không có coi khinh kinh tế, mà đúng hơn là đề phòng sự độc hại của nó một khi nó thống trị tất cả. Không được quên rằng các Giám Mục Tông Tòa sống vào một thời buổi mà người ta bắt đầu ý thức về tầm mức quan trọng của sức mạnh kinh tế. Vào năm 1615, Montchrestien đã xuất bản cuốn Chuyên Luận Kinh Tế Chính Trị Học nổi tiếng của ông ta, lập tức các Giám Mục Tông Tòa đã phản ứng chống lại khi nhận thấy có sự “mập mờ đánh lận con đen” giữa kinh tế và truyền giáo. Nhưng sau Montchrestien, lại xuất hiện A. Smith, K. Marx, Phong trào O.M.C và những ý thức hệ mà họ đang theo đuổi và phát động. Vị thừa sai không dính dáng chút nào đến kinh tế, thái độ này đã đủ chưa? Giải pháp đề nghị là tùy thuộc vào mức độ nhận thức những tác dụng tiêu cực thấy được.
Giải pháp trên cũng không tránh khỏi những phê phán của các khoa nhân chủng, xã hội, văn hoá hoặc tôn giáo. Con người có đạo hay không đều phải giải đáp những vấn nạn mà họ gặp. Những vấn nạn này lại nằm ngay trong những câu trả lời có sẵn. Nếu ta quá hấp tấp muốn thoát ra khỏi sự phức tạp của vấn đề thì lại bị câu trả lời mê hoặc mà không lưu ý đến lời cảnh cáo của K.Marx trong cuốn Vấn đề Do Thái: “Chính cách đặt vấn đề đã bao hàm câu giải đáp”. Các tác giả của Monita có thể không biết nhiều về những hình thức đa dạng của bạo lực khi chủ trương đức khiêm nhường là nhân đức chính yếu của vị thừa sai, cũng chính là nhân đức lắng nghe và quan tâm đến người khác.
Nhưng họ không hề do dự phản bác và lên án việc dùng bạo lực để rao giảng Tin Mừng. Dù không muốn đụng đến “những chuyện đã xẩy ra bên Ấn Độ nơi thiên hạ sử dụng vũ lực”. Các ngài đã tố cáo các thừa sai không biết hổ thẹn khi thốt ra những lời nói đại loại như: “Đừng có mong chờ gì ở chùm chìa khóa của thánh Phêrô để làm cho lương dân trở lại, nếu không sử dụng thanh gươm của thánh Phaolô đi trước mở đường”.
Vào thời kỳ này, người ta đã có một cái nhìn mới về quyền lực. Quyển De Cive của Hobbes, được dịch sang tiếng Pháp xuất hiện vào năm 1640. Đối với các vị Giám Mục Tông Tòa, Tin Mừng và Tự Do luôn đi đôi với nhau. Một trong những lý do thành lập Bộ Truyền Giáo năm 1622, là tách việc truyền giáo ra khỏi chính trị. Sự cảnh giác về việc sử dụng “những phương tiện trần thế” có thể làm chúng ta ngạc nhiên, nhưng phải hiểu đó là ước muốn được tự do để rao giảng Tin Mừng. Những phương tiện trần thế bao gồm tất cả những gì có thể làm tổn hại hoặc che khuất ánh sáng Tin Mừng. Sự hiểu biết ngôn ngữ, văn hoá, và các tôn giáo được trình bày như là một mệnh lệnh cấp bách. Người ta có thể cho rằng ở đây còn thiếu một sự suy nghĩ thỏa đáng về những điều kiện giúp đối thoại một cách chân thực. Nhưng về điểm này, ngay cả ngày hôm nay, chúng ta đã vượt qua được những luận điệu mà tính chỉ thị và hô hào, hoặc những mô hình pha trộn ít nhiều tạm bợ chưa?
Cần thêm một vài nhận xét để tiếp tục cách đọc Monita. Nếu các Giám Mục Tông Tòa đã tìm được ngay trong Kinh Thánh chất men phê phán đã từng dẫn dắt các ngài trong việc truyền giáo, thì việc gặp gỡ các sắc dân, nền văn hoá, tôn giáo của họ sẽ không ngừng làm cho các ngài phải thắc mắc. Các ngài chủ trương tìm ra những điểm đồng nhất (những mẫu số chung), những điểm đồng thuận, nhưng các ngài cũng nhận ra ngay là có một số công thức diễn tả đức tin, vì thiếu sự đồng thuận văn hoá đã khiến nhiều người lui bước, khó chấp nhận.Các ngài cũng cố gắng tiếp cận với thuyết luân hồi khi trình bày tội Nguyên Tổ. Những quan điểm như thế, mặc dù còn rụt dè và “ấp úng”, có lẽ đã mở ra một hướng đi (cho việc truyền giáo). Ta cần làm quen tiếp cận với những xác quyết nhằm giải quyết các vấn đề hơn là đối đầu trực tiếp. Việc đưa Tin Mừng hòa nhập vào nền văn hóa Tây Phương đã có thể là sự “chiếm đoạt”, và do vậy đã đi tới chỗ củng cố một thứ chủ thuyết lấy chủng tộc mình làm cái nôi, lại vừa tố cáo phản ngược lại (chủ thuyết ấy)...mọi ý thức hệ, ngay cả một ý thức hệ được hình thành nhờ tiếp xúc với Tin Mừng, cũng phải chịu sự phê phán của Tin Mừng.
G. Espie
Kính trình Đức Thánh Cha,
Từ lúc mà Thiên Chúa nhân từ đã đoái thương gọi chúng con đi truyền giáo, mặc dù chúng con bất xứng; và từ lúc mà vị Tiền nhiệm của Đức Thánh Cha, Đức Alexandre VII đáng nhớ, đã cất nhắc chúng con lên hàng Giám Mục và sai chúng con đến với lương dân giúp họ trở lại, thì không điều gì khiến chúng con quan tâm hơn là đem hết sức lực để hoàn thành sứ mạng cao quí và quan trọng này. Chúng con đã nghe nhiều, chúng con đã đọc nhiều, chúng con cũng đã quan sát tường tận tại các cuộc họp với những anh em đồng nhiệm từ các xứ truyền giáo, và nhờ kinh nghiệm chúng con đã xem xét kỹ lưỡng tất cả các tường trình. Một biến cố “thuận lợi” chưa chắc đã giúp ích cho chúng con bằng việc chúng con phải bị bắt buộc dừng lại lúc vừa đến ranh giới lãnh thổ được giao phó. Ý Chúa quan phòng đã làm chậm lại những nỗ lực của chúng con để chúng con cùng nhận ra điều phải làm hoặc phải tránh, đồng thời sự quan phòng cũng bảo đảm “một vụ mùa bội thu” sắp tới.
Chúng con nhận ra ngay ảnh hưởng to tát của các Đấng thừa sai nhờ vào những nhân đức và đời sống thánh thiện trong việc làm cho lương dân trở lại. Cũng thế, chúng con ý thức rằng việc trở lại của lương dân bị chậm lại hay bị cản trở vì sự bất xứng và đầu óc trần tục của các sứ giả hoà bình. Một số tác giả có thế giá, đặc biệt là Joseph Acosta I, đã thẳng thắn nhận định: Các xứ truyền giáo vốn rất phồn thịnh, và đầy hứa hẹn đã tan biến vì lối cư xử bất xứng của một số thừa sai, hoặc vì cách truyền bá Tin Mừng đã đi ngược lại với chính sứ điệp Tin Mừng, hoặc do sự thiếu nhiệt tâm và thiếu hiểu biết của họ. Cũng thế, để những nơi được giao cho chúng con tránh được những tai họa như thế, chúng con mạo muội đưa ra một số ý kiến mà chúng con tin sẽ giúp tránh xa được những bất trắc sẽ xảy ra, những ý kiến này chúng con tóm gọn trong tập CHỈ DẪN. Do đó, trong tài liệu này, chúng con trình bày cách thức phải tránh những thói quen buông thả bằng cách sống các nhân đức tông đồ (chương I). Chúng con quan tâm đến việc cải thiện cách truyền bá Tin Mừng, dựa theo cách thức tuyệt diệu của Chúa Kitô và các Tông đồ (ch II, III và IV). Sau cùng, để đánh tan sự dốt nát, chúng con đã trình bày những bổn phận phải thực thi khi đi làm việc tông đồ nơi lương dân (ch V), nơi các dự tòng (ch VI), nơi những ứng viên đã được tuyển chọn để lãnh nhận Phép Rửa (ch VII), nơi các tân tòng (ch VIII), nơi các tín hữu đã được đào luyện (ch IX), nơi những thầy giảng sẽ được lãnh chức linh mục (ch X). Trong phần phụ lục, chúng con cũng thêm những ý kiến rất hữu ích liên quan đến cách giảng dạy cho có hiệu qủa, hoặc những điều phải truyền đạt.
Khi Tòa Thánh sai chúng con đến miền Viễn Đông, thì mục đích và yêu cầu của Tòa Thánh là chúng con phải đào tạo những linh mục có khả năng trở thành những cột trụ của Giáo hội đang thành hình. Chúng con thiết tưởng rằng nên trình bày những tín điều chính của Kitô giáo, không phải làm cho qua chuyện nhưng đào sâu cách tối đa trong mức độ mà cuốn sách ngắn gọn này cho phép.
Do đó chúng con đã chứng minh chân Đạo và đang hiện hữu: đó là Đạo tôn thờ Thiên Chúa nhân từ và cao cả. Chúng con đề ra một quan niệm hay một ý tưởng về Thiên Chúa, thích ứng với tâm thức chung (chương V. tiết 1,2,3&4).
Thứ đến, chúng con đã chỉ ra sự cần thiết và sự hiện hữu của một Đấng Trung Gian Duy nhất là Đức Kitô, Chúa chúng ta. Chúng con cho thấy Lề Luật mà Người loan báo không mới mẻ gì và thực ra không xa lạ với chân Đạo. “Đạo của Chúa Kitô cần thiết cho sự cứu rỗi từ buổi tạo thiên lập địa”. Lề luật ấy chỉ là một sự bổ túc và là đỉnh chóp hoàn hảo mà ta không cần thêm thắt cũng như không có lý tưởng cao đẹp nào sánh bằng. (chương VI, tiết 3,4,5,6,7 và!)
Sau đó, chúng con đã cho thấy rằng chân Đạo vốn có một Giáo hội hữu hình, một tổ chức trật tự bao gồm mọi tín hữu, và Giáo Hội đó phải biểu hiện ra bằng những đặc tính và sắc thái rõ rệt. Cuối cùng, chúng con xác tín rằng chính Giáo Hội Rôma được phú cho những phẩm tính đó, khiến bất cứ ai sáng suốt và công minh đều phải nhận đây là Giáo Hội chân thật (ch VI, tiết 10 và 11).
Nếu các vị thừa sai và các thầy giảng luôn có trong tâm thức những tín điều này thì niềm tin của họ luôn được củng cố. Họ sẽ có sẵn trong tay phương thế để bảo vệ đức tin công giáo chống lại những nỗ lực quấy phá của quân thù. Thật ra, điều xác tín đầu tiên đủ để làm lung lay những sai lạc của kẻ ngoại đạo. Điều chứng minh thứ hai chống lại vô đạo của đạo Hồi, vạch ra sự ngu dốt của các triết gia, đè bẹp sự liều lĩnh của các kẻ thù khác mang danh Kitô giáo. Cuối cùng, xác tín thứ ba cho thấy giáo hội Rôma, luôn gìn giữ đức tin, chăm sóc giảng dạy chân lý, phải được mọi người vâng phục, có khả năng đánh đổ các giáo phái ly khai. Giáo hội còn vạch cho thấy các môn đồ các giáo phái này khi xa lìa đức tin và đức ái, thì sẽ đi xa lạc con đường cứu rỗi.
Kính thưa Đức Thánh Cha,
Chúng con phải nói đến điều sau cùng là điều chính yếu, nếu không sẽ là một thiếu sót trong tập Chỉ Dẫn này. Chúng con muốn nói đến uy danh của Đức Thánh Cha. Chắc hẳn nó sẽ có tác dụng mạnh mẽ, lôi kéo sự thán phục của mọi người đối với bản Chỉ dẫn, vốn được viết để đào luyện lòng đạo đức và sự nhiệt thành tông đồ. Được Đức Thánh Cha đỡ đầu, tập Chỉ dẫn này sẽ không có gì phải e sợ, chắc hẳn nó sẽ chiến thắng sự lầm lạc và đồi bại.
Xin Đức Thánh Cha đoái nhận lòng kính trọng của những đứa con thảo và xin Đức Thánh Cha ban phép lành Tòa Thánh cho chúng con.
Các đầy tớ hèn mọn và vâng phục của Đức Thánh Cha:
- François, Giám mục Héliopolis,
Giám Mục Tông Tòa Đàng Ngoài,.v.v...
- Pierre, Giám mục Béryte,
Giám Mục Tông Tòa Đàng Trong,.v.v...
Fr. Xavier, nhờ ơn Thiên Chúa và lòng ưu ái của Tòa Thánh,
Giám mục Héliopolis, Giám mục Tông Tòa Đàng Ngoài,
Và Pierre, cũng hưởng nhờ các ơn trên,
Giám mục Béryte, Giám mục Tông Tòa Đàng Trong.
Thân gửi các anh em trong Chúa, những người bạn chiến đấu và những cộng tác viên của chúng tôi, ân sủng và bình an trong Chúa Giêsu Kitô.
Chính tình yêu của Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, đã khiến anh em rời bỏ quê hương đi chinh phục các linh hồn cho Chúa Kitô và đến trợ giúp các tỉnh thành bị bỏ rơi. Cũng chính tình yêu này đòi buộc chúng tôi phải ân cần yêu mến anh em như những người cha, giúp anh em dễ dàng tiến bước để hoàn thành nhiệm vụ tông đồ hầu đem lại phần rỗi cho các linh hồn đã được giao pho.
Vì thế, sau khi đã tham khảo ý kiến những anh em đang có mặt, chúng tôi đã soạn thảo tập Chỉ Dẫn này, giúp anh em đạt được sự hoàn thiện tông đồ hoặc nhận biết những bổn phận phải chu toàn. Ước gì anh em luôn duy trì cùng một cách thức, giảng dạy đúng đắn và một lối sống đồng nhất, thánh thiện hơn. Anh em thân mến, hãy bắt tay vào việc để tỏ sự trung thành, hầu thực hiện lời thúc bách của thánh Tông đồ “Anh em hãy ân cần lo cho chính mình và toàn thể đoàn chiên mà Thánh Thần đã đặt anh em coi sóc” (Cv 20, 28).
Nếu anh em không cảnh tỉnh, anh em sẽ không nhận ra những thiếu sót trong việc chu toàn sứ vụ cách đúng mực, cũng như không thể phát huy những tài năng phi thường của anh em. Vì vậy: Anh em hãy giữ mình, bởi người tự bản chất xấu đâu có thể sinh được điều tốt cho người khác? Tiếp đến, anh em hãy lưu tâm đến đoàn chiên phải chăn dắt: Sự lớn mạnh của đoàn đi đôi với sự tăng trưởng lòng sốt sắng và đạo hạnh của anh em. Thực ra, đó cũng là nhiệm vụ tông đồ của các thừa sai khi huấn luyện và hoàn thiện những người khác, làm cho họ nên hoàn hảo thánh thiện hơn.
Đồng thời, nhân danh Thiên Chúa, chúng tôi nài xin anh em hãy tỏ ra xứng đáng với trọng trách trong mọi sự: Xem xét và suy gẫm kỹ càng điều mà chúng tôi viết (liên quan đến) về sự hoàn thiện của vị thừa sai. Cầu nguyện để am tường và để thực thi những điều đó trong nếp sống của anh em. Sau cùng, giữ mình đừng bao giờ thiếu sót. Về phần chúng tôi, cùng với Thánh Tông Đồ, chúng tôi nài xin Thiên Chúa là Cha Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta “thể theo sự phong phú của Người là Đấng vinh hiển, ban cho anh em được củng cố mạnh mẽ nhờ Thần Khí của Người, để con người nội tâm nơi anh em được vững vàng. Xin cho anh em, nhờ lòng tin, được Đức Kitô ngự trong tâm hồn; xin cho anh em được bén rễ sâu và xây dựng vững chắc trên đức ái, để cùng toàn thể các thánh, anh em đủ sức thấu hiểu mọi kích thước dài rộng cao sâu, và nhận biết tình thương của Đức Kitô, là tình thương vượt quá sự hiểu biết. Như vậy anh em sẽ được đầy tràn tất cả sự viên mãn của Thiên Chúa.” (Ep 3, 16-19) – “Như thế, anh em sẽ trở nên trong sạch, không ai chê trách được điều gì, và sẽ trở nên những con người vẹn toàn của Thiên Chúa, giữa một thế hệ gian tà, sa đọa. Giữa thế hệ đó, anh em phải chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời” (Pl 2,15) – Vì, “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại, hầu tất cả những gì anh em xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy, thì Người sẽ ban cho anh em” (Ga 15,16).
Những chỉ thị cho các thừa sai với phần phụ lục, do lệnh của Thánh Bộ Truyền Giáo. Đã được đọc một cách kỹ lưỡng, hoàn toàn phù hợp với tinh thần tông đồ, xứng hợp với đức tin chính thống và hữu ích cho các linh mục đang làm việc trong các xứ truyền giáo vì phần rỗi lương dân.
Rôma, tại Tu viện Saint-Bernard aux Thermes, ngày 19 tháng 2 năm 1669.
D. Jean Bona,
Abbé de Bernard,
Et Consulteur de la Sainte Inquisition Romaine et Universelle.
Chúc tụng Thiên Chúa là nhân từ, Người đã thương yêu chúng ta, Ngài đã không ngừng làm tiến triển công việc được giao phó cho chúng tôi. Trong khi vừa thoát khỏi bao cảnh gian nguy, chúng tôi đã vội vã đi thăm các điểm truyền giáo vừa xa xôi vừa khác biệt; Người đã dun dủi cho tất cả chúng tôi được gặp nhau tại một nơi, vượt qúa mọi ước mong của chúng tôi. Trong biến cố này, chúng tôi cũng cố gắng tìm ra ý định sâu xa của Chúa Quan Phòng, cũng như điều mà Đấng Tối Cao Thượng Trí đòi buộc chúng tôi. Chúng tôi dễ dàng nhận ra rằng không có gì hay hơn là rảo khắp các vùng Á Châu sẵn có các tín hữu đã được dạy dỗ bằng nhiều phương thức thử nghiệm khác nhau. Mục đích là để nhận thức những điều thuận lợi, cũng như những điều cản trở trong công việc truyền bá Đức tin.
Trước hết chúng tôi phải tìm hiểu cặn kẽ hiện tình đạo Kitô và thấu hiểu những tệ nạn đang phát triển tại đó.
Tiếp đến, khi nhóm họp với các đồng sự, ưu tư đầu tiên của chúng tôi, theo lời thánh Tông Đồ gửi cho ông Timothê: “Anh hãy thận trọng trong cách ăn nết ở và trong lời giảng dạy. Hãy kiên trì trong việc đó. Vì làm như vậy, anh sẽ cứu được chính mình, lại còn cứu được những người nghe anh giảng dạy.” (1 Tm 4,16) phải là: ưu tư về phần rỗi của chính mình và phần rỗi của các thừa sai khác. Do đó, chúng tôi phải quyết định làm gì, tránh gì để khỏi phải rơi vào con đường xấu. Sau cùng, lấy những qui luật tông đồ làm kim chỉ nam, chúng tôi phải vạch ra đâu là phương cách đúng và tốt để truyền bá Đức Tin.
Kể từ khi xuất hiện ánh sáng đức tin ở Ấn Độ, các vị thừa sai tận tâm đã không ngừng ra sức truyền bá Tin Mừng, và luôn làm tròn sứ mạng. Nhưng dần dần, một số vị đã đánh mất sự nhiệt tình ban đầu hầu như không còn quan tâm đến những dân tộc được giao phó cho họ, rồi chẳng bao lâu sau, họ không quan tâm đến chính phần rỗi của mình nữa. Các sử gia vốn đã kể lại những điều kỳ diệu do thánh Fr. Xavier thực hiện trong lần đầu tiên ghé qua xứ Đông Ấn, thì chính họ cũng mô tả tình trạng đáng buồn này. Những trường hợp tương tự cũng đã xảy ra ở xứ Tây An: Acosta cũng đề cập đến những chuyện đó trong quyển sách của ông là Việc Trở Lại Đạo ở Ấn Độ. Cám ơn Chúa, những chuyện đó không còn tiếp diễn nữa.
Để ngăn ngừa những tai họa này, các vị thừa sai trên hết phải cố gắng tìm ra các căn nguyên của chúng. Chỉ cần để ý một chút thì sẽ nhận ra ngay các cám dỗ mà các thừa sai gặp phải cũng chính là những cám dỗ mà ma quỉ đã dùng để tấn công Thầy Chí Thánh trong sa mạc; sau này họ còn nhận ra việc rơi vào vực thẳm lại càng dễ dàng. Thật vậy, quá lo lắng cho thân xác và những sự dễ dãi không chính đáng đã dần dần làm suy yếu lòng yêu mến Thiên Chúa nơi nhiều vị khiến họ coi trọng xác thịt hơn tâm linh. Tính tự phụ đã kéo theo nhiều điều xấu khác: Việc tập tành nhân đức chưa xong, còn chưa có thể tự điều khiển được chính mình, vậy mà họ đã dám nhận chăn dắt đàn chiên của Chúa Kitô. Đó chính là bắt đầu xây dựng mà không có tài nào hoàn tất. Tính ham hố cuối cùng cũng đã đưa đến những hậu quả tai hại: lòng tham vô đáy muốn chiếm hữu tất cả dẫn đến cuộc sống xa hoa và yếu nhược. Từ đó ta mới hiểu nết xấu này đã biến những môn đồ thành tín của đức nghèo khó Tin Mừng, trở nên những nô lệ xấu xa của tiền bạc. Đó là cách thức dẫn đưa những tôi tớ của Chúa Kitô đến chỗ phục vụ ma quỉ.
Cho nên, vị thừa sai phải làm mọi cách để bẻ gãy mọi thứ vũ khí trên của ma quỉ. Nếu Chúa Kitô đã muốn đương đầu với những vũ khí của ma quỉ, chính là để dạy cho những tôi tớ Ngài cách thức chiến thắng. Vậy nên họ phải suy gẫm cách nghiêm túc và thường xuyên những câu trả lời tuyệt vời của Đấng Cứu Thế, đã quật ngã quân thù cách quyết liệt: “Con người không chỉ sống bởi cơm bánh, nhưng còn bởi Lời từ miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4,4). Ước gì các vị thừa sai qua đó học được cách sống từ Thiên Chúa bằng cầu nguyện và phó thác hoàn toàn vào Chúa quan phòng. Lại có lời chép rằng: “Ngươi chớ thử thách Chúa, Thiên Chúa của ngươi”(Mt 4,7). Ước gì người thừa sai không mơ tưởng cao xa, không tự cao tự đại, nhưng đặt trọn niềm tin vào quyền năng tuyệt đối của Đấng làm cho mình mạnh mẽ. Và cuối cùng: “Xéo đi, Satan. Ngươi phải bái lạy Chúa, Thiên Chúa của ngươi và chỉ thờ lạy một mình Người” (Mt 4,10). Cho nên, ước gì nhà thừa sai sẽ không thờ ơ những chuyện trên trời để buông trôi theo những chuyện dưới đất. Tóm lại, phải tránh những chuyện trần tục, chỉ ra ngoài vào những lúc và đến những nơi mà công việc bác ái đòi hỏi. Phải yêu mến đời sống cô tịch, chuyên cần nguyện gẫm, nhiệt thành mãnh liệt, chỉ chú tâm đến phần rỗi các linh hồn; trong mọi sự phải tỏ ra là thừa tác viên xứng đáng của Thiên Chúa, giàu nhân đức, khiến trở thành một động lực thúc đẩy những vị thừa sai khác trong miền, hướng đến một đời sống hoàn hảo hơn.
Cần bàn kỹ hơn về các cám dỗ chính và những phương dược chữa lành, phải xem xét kỹ lưỡng những mưu mô và mánh khoé của ma quỉ, để vạch ra phương cách chống lại. Lo cho thân xác quá đáng đã là khó coi với một Kitô hữu bình thường rồi, bởi vì phải sám hối không ngừng trong suốt cuộc sống trần gian. Vậy phải nhận định thế nào về sự đối nghịch giữa những lo toan này với tinh thần tông đồ? Thật vậy, chính Chúa Kitô đã hối thúc các tông đồ và những người kế vị phải có một đời sống khắc khổ hơn: “Nếu ai muốn theo Ta thì hãy chối bỏ chính mình, vác lấy khổ giá mà theo Ta” (Lc 9, 23).
Cũng vậy, không phải những kẻ tinh tế và nhàn hạ, nhưng là những người đánh cá thô kệch mà Người đã chọn làm tông đồ. Đó là những người thường phải can đảm chống chọi với những khó khăn, đối đầu với những thất thường của thời tiết, từ cái oi bức của nắng nóng tới cái giá lạnh của mùa đông và còn bao nhiêu nghịch cảnh, giữa muôn vàn hiểm nguy, vất vả mà họ đã biến thành niềm vui khiến họ ra sức cứu các linh hồn vốn đã được Chúa Kitô trả giá bằng máu.
Và thật vậy, nếu chúng ta quan sát sâu sắc hơn cuộc đời của chính Chúa Kitô và các Tông đồ, chúng ta sẽ không thể tìm thấy gì nghèo khó và khắc khổ hơn. Chúa Giêsu không có cả nơi gối đầu (Lc 9,58). Các thánh Tông đồ đi theo ngài đã bị cơn đói giày vò đến nỗi họ đã phải, vào ngày Sabat, bứt những gié lúa dọc đường! Chúng ta hãy lắng nghe lời thánh Phaolô: “Cho đến giờ này chúng tôi phải đói, phải khát, mình trần thân trụi.v.v...” (1 Cr 4,11). Nhưng hãy nhìn lại thời gần đây: Thánh Fr. Xavier, vị tông đồ vĩ đại của xứ Ấn Độ. Trong suốt cuộc đời ngài không ngừng ăn chay hãm mình. Thức ăn của ngài luôn luôn thanh đạm và dễ nấu, của bố thí hoặc là người ta mang đến cho Ngài; ăn uống đối với ngài không phải để thoả mãn khẩu vị, nhưng chỉ vì nhu cầu tự nhiên; ngài có thói quen chỉ ăn mỗi ngày một bữa và hầu như chỉ có một món.
Ma quỉ, đã từng biết rằng cuộc sống khắc khổ của các tông đồ thì bất lợi cho chúng, nên đã dùng trăm phương nghìn kế để làm các ngài thay đổi lối sống. Cũng thế, ma quỉ không chiêu dụ các ngài đi ngay vào một cuộc sống quá dễ dãi vì biết các ngài yêu mến thánh giá, nhưng chúng xoay hướng tấn công nhằm vào những công việc vất vả liên miên làm cho kiệt sức, vào những thay đổi thất thường của thời tiết, vào sự thiếu ăn, vào tất cả những gì con người tự nhiên thường sợ. Mặt khác, ma quỉ còn viện cớ thiếu nhân sự nên công việc truyền giáo của họ rất ích lợi và cần thiết. Rồi chúng khuyến dụ họ phải chăm lo sức khoẻ của mình nhiều hơn, làm việc chừng mực để từ đó dần dà lôi kéo các ngài đến sự buông thả.
Ước gì nhà thừa sai biết cảnh giác cùng với thánh tông đồ Phaolô sợ chính mình mất phần rỗi, nếu không hãm dẹp thân xác mình và không bắt nó tùng phục mình, bằng cách này, ngài sẽ không giả điếc làm ngơ trước những mánh khoé của ma quỉ; và, nhất mực tiếp tục lối sống đã được đào luyện.
Ước gì nhà thừa sai biết ghê sợ những thói tục quá dễ dãi của những vùng này và đừng lui tới những nhà tắm công cộng. Vị ấy sẽ tuyệt đối kiêng ăn trầu (Ấn Độ giống Việt Nam) trừ trường hợp từ chối bất lễ đối với dân bản xứ. Phải kiêng những món “sơn hào hải vị” và hãy dùng đồ ăn thức uống bình thường trong vùng. Cuối cùng, phải có thói quen ăn uống theo nhu cầu chứ không phải vì “khoái khẩu”.
Những người ma quỉ đã không thể cám dỗ bằng của ngon vật lạ thì bị nó dụ dỗ bằng tính tự phụ và vinh quang phù phiếm. Những cái bẫy này xem ra có hiệu nghiệm hơn. Tính tự phụ thật ra là mặt trái của lòng nhiệt thành để làm sáng danh Thiên Chúa và lời chúc tụng Chúa phải đi đôi với nhân đức.
Cho nên đối với các thừa sai, không gì nguy hiểm hơn là tính tự phụ và vinh quang phù phiếm. Thật vậy, chính tính tự phụ, đã biến Thiên Thần thành ma quỉ; khi tính tự phụ xâm nhập vào tâm hồn của vị thừa sai, nó liền phá hủy công trình của Thiên Chúa khiến vị này liều lĩnh mà không lường được sức của mình. Vinh quang phù phiếm tước đoạt rất nhanh phần thưởng chính đáng sau nhiều năm nỗ lực; đồng thời nó cũng cướp đi vinh quang thuộc về Thiên Chúa, làm cho ngài giận dữ vì ngài không nhường vinh quang cho một người nào khác.
Cho nên ma quỉ không nương nhẹ tay để làm cho vị thừa sai tiêm nhiễm những chất độc nguy hại này. Nếu ma quỉ đạt được mục tiêu, nó sẽ làm tan biến công trình và những nỗ lực của người thợ. Ma quỉ làm cho vị thừa sai loá mắt vì muốn làm cho Thiên Chúa và Đức Kitô được vinh quang hơn khi có một mùa gặt bao la các linh hồn và đem đạo Chúa Kitô đến khắp cùng trái đất. Tiếp đó, nó lắt léo làm cho ngài nghĩ rằng phải thừa cơ hưởng thụ những mối lợi về cả ân sủng lẫn vật chất. Và vị thừa sai bị mắc lừa sẽ lao vào quá nhiều công việc một cách bất cẩn. Dần dà, ngài sẽ bỏ bê những thực hành thường ngày của mình như cầu nguyện, xét mình, đời sống nội tâm; ngài sống hướng ngoại, không chu toàn bổn phận và hoàn toàn quên cả chính mình. Chẳng bao lâu sau, bị mất đi sự trợ giúp của ân sủng và nâng đỡ của Chúa Thánh Thần, ngài không thể chống đỡ trước những lôi cuốn của vinh quang phù phiếm và lập tức rơi vào tình trạng xáo trộn nghiêm trọng hơn: khinh rẻ mọi chuyện nhỏ, không vâng phục, chỉ màng đến những dự tính mông lung, và mơ tưởng những chuyện đại sự. Từ đó ta hình dung cách dễ dàng, ngài sẽ rơi xuống vực thẳm âu lo, lầm lạc và tội lỗi.
Giữa những cơn sóng dữ dội của những cám dỗ này, chỉ một bến cảng duy nhất được mở ra cho vị thừa sai: Đó là bến cảng của lòng khiêm tốn. Vậy nên ước gì vị thừa sai chăm chỉ điều chỉnh nhiệt huyết của mình, không phải sự nhiệt thành mãnh liệt của mình hay là theo vẻ bề ngoài của những tài năng xuất chúng, nhưng là theo bổn phận cốt yếu mà tư cách nhà truyền giáo và lời hứa vâng phục đòi buộc. Ước gì ngài biết cân nhắc mọi điều theo gương chính Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Trong 33 năm mà Người đã sống ở thế gian, Người đã chỉ dành 3 năm cuối cùng cho việc rao giảng; người đã hạn chế hoạt động trong biên giới chật hẹp của miền Giuđêa, hiếm khi Ngài ở trong những thành phố lớn, nơi cư ngụ của các Vua Chúa và người quyền quí; Nhưng Người đã rảo khắp các làng và các thôn ấp loan báo Nước Thiên Chúa cho người nghèo. Ước gì vị thừa sai liệu chừng sức mình và khả năng mình không phải theo ý kiến loài người, nhưng theo sự phán xét của Thiên Chúa mà thôi, nếu đôi khi có thành công, ngài phải đoan chắc rằng đó là công trình, không phải của người trồng cũng không phải của người tưới, mà là của Đấng đã làm cho nó mọc lên. Vậy nên ước gì ngài biết qui mọi sự về một mình Thiên Chúa mà thôi. Ước gì ngài đừng bao giờ thực hiện điều gì mà không tham khảo Thiên Chúa trước. Ngài sẽ nổi bật bằng việc tự hạ và tôn vinh người khác. Ngài sẽ tránh những lời tán thưởng của người đời hoặc tốt hơn, hãy khiếp sợ chúng. Nếu bị người ta hiểu lầm, ngài sẽ phó thác tất cả cho Thiên Chúa, tự cho là hạnh phúc khi có dịp được chịu lăng nhục vì Chúa Kitô. Cuối cùng, khi ngài có dịp viết hoặc nói về những việc trở lại đạo, ngài sẽ chỉ dùng những lời này: “Chúa đã thương ban cho bấy nhiêu linh hồn trở lại đạo”. Ngài sẽ hết sức tránh đừng bao giờ có ý gán cho thụ tạo điều chỉ thuộc về Thiên Chúa.
Thánh tông đồ Phaolô thật là chí lý khi gán cho sự ham muốn của đôi mắt là nguồn gốc của mọi nết xấu. Thật vậy, không những bằng bản chất độc hại, nó phá huỷ tinh thần khó nghèo của cuộc sống truyền giáo, nó còn là cái nôi nuôi dưỡng mọi thú đam mê khác. Sự ham muốn của đôi mắt đã làm sa hoả ngục không biết bao nhiêu linh hồn, nó làm biến mất những xứ truyền giáo phồn thịnh nhất, nó phá đổ sự tuân thủ lề luật nơi các dòng tu thánh thiện và kỷ luật nhất. Không có thảm họa nào đã từng gây tai họa to lớn như thế. Vừa khi len lỏi vào tâm hồn nhà thừa sai, nó liền cướp đi sự bình an trong tâm hồn lẫn uy tín và ảnh hưởng của vị ấy. Thật vậy, vì hữu ích cho người khác, vị thừa sai được đón tiếp như người cha. Nhưng khi thấy ngài gắn bó với của cải trần gian, người ta đâm sợ ngài lợi dụng vị thế của mình để bòn rút mọi thứ. Trước đây người ta ca tụng ngài vì ngài không tha thiết gì với những của cải hay hư nát, bây giờ người ta trách ngài khi thấy ngài nô lệ cho lòng ham muốn vật chất; và chính ngài sẽ là lý hình tự trừng phạt mình bằng muôn vàn nỗi buồn phiền và lo lắng. Mất sự bình an trong lòng, cuối cùng ngài trở nên hết khả năng chuyên tâm phục vụ Chúa và cứu rỗi linh hồn.
Quả thật, không có thứ gì, mà Chúa Kitô lại nghiêm cấm khắt khe hơn là lòng ham muốn sở hữu và chiếm đoạt. Chính vì thế, Người đã chọn những người nghèo khó làm Tông Đồ hoặc là Người đã biến những kẻ tuyển chọn thành nghèo khó. Người đã nói với những kẻ muốn theo Người hãy bán tất cả những gì mình sở hữu để chỉ còn tìm kiếm Nước Thiên Chúa bằng cách từ bỏ mọi lo lắng khác (Mt 19,27).
Đúng vậy, trong mọi thứ cám dỗ tấn công nhà thừa sai, chính lòng ham muốn này đặt nhà thừa sai vào tình trạng nguy hiểm nhất, vì nó dùng cái vẻ bề ngoài của nhân đức để che phủ cái xấu. Bởi kẻ bị lòng khát khao trên dày vò, thường cho việc tích trữ của cải là biết khôn ngoan tiên liệu; y lấy cớ phải đáp ứng nhu cầu trước mắt trong nhà, phải lo trang hoàng nơi thờ phượng, phải tổ chức lễ lạc. Như thế, y tự cho là không bao giờ thừa và không bao giờ đủ, dù những của dâng cúng người ta giúp y có đến mức nào đi nữa. Lòng tham của y vô đáy! Còn gì nữa? Y còn viện cớ phải truyền bá đạo Chúa, phải vận động các vua quan, phải dùng quà cáp để lấy lòng, phải làm cho dân chúng thán phục bằng vẻ hào nhoáng bên ngoài và phải bảo vệ phẩm giá của mình. Và rồi, cuối cùng chính y bị đưa đẩy cách thảm hại vào việc tích lũy của cải bằng những phương thế đáng khinh và bất chính.
Vị thừa sai sẽ dễ dàng vạch trần cám dỗ quái quỉ này và mau lẹ thoát khỏi mạng lưới của nó, nếu biết theo gương các thánh Tông đồ, từ bỏ của cải và chính mình (Mt 19,27) để theo Chúa Kitô nghèo khó. Ước gì ngài biết chọn sống thiếu thốn hơn dư thừa. Ước gì khi phó thác những âu lo và hi vọng của mình vào sự quan phòng của Thiên Chúa là Cha, ngài sẽ không lo lắng gì cho ngày mai. Cuối cùng, thà chết trong sự thiếu thốn hơn là sống trong sự dư dật.
Vậy thì, miễn là có ăn có mặc là hạnh phúc rồi. Mặc thì cho sạch, nhưng tránh xa hoa. Đừng tìm kiếm đồ đạc sang trọng, cũng đừng xây cất nhà cửa lộng lẫy, nhưng hãy sống đơn giản nghèo khó.
Khi trong nhà đủ dùng mà lại có người dâng cúng thì lo mà đem cho người nghèo.
Cuối cùng khi hoàn cảnh cho phép ngài hãy giao tiền bạc cho những người tín cẩn để hết tâm mà lo việc truyền giáo. Khi việc quản lý những của cải vật chất được giao phó cho những người khác như vậy, vị thừa sai sẽ được giải thoát khỏi bận bịu về những của cải, chỉ tuỳ thuộc vào một mình Thiên Chúa, và sẽ có thể cống hiến hoàn toàn cho sứ vụ cao quí và làm việc hết mình cho vinh quang Thiên Chúa và việc cứu rỗi các linh hồn.
Điều xấu mà chúng ta vừa nói đến, đã hoành hành khắp cả Ấn Độ, đến mức mà ba lời Khấn Dòng, đáng ra phải là những liều thuốc hữu hiệu nhất, thì đã không thể giữ cho một số tu sĩ tránh khỏi những tổn hại bi thảm. Phải có một nguyên nhân tiềm ẩn của sự đồi truỵ này. Khi xem xét kỹ càng người ta nhận ra một nguyên nhân duy nhất: Sự lơi lỏng tinh thần cầu nguyện trong những miền này đã lên đến mức báo động như lời tiên tri Giêrêmia: “Cả xứ đã ra cằn cỗi, mà không người để tâm lo đến” (Gr 12,11). Một chân lý tuyệt đối: Tinh thần cầu nguyện thì cần thiết và hiệu nghiệm chống lại mọi thứ cám dỗ. Chính Chúa Giêsu Kitô đã tuyên bố điều đó cách dứt khoát, khi Ngài nói: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám do” (Mc14,38). Nếu đó là mệnh lệnh mà Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta đã ban cho chính các Tông đồ, chúng ta lại càng không có lý do để nói rằng người thừa sai truyền giáo lại không cần lương thực hằng ngày là sự cầu nguyện để nuôi dưỡng! Nếu ngài chểnh mảng không tự nuôi sống bằng thứ lương thực đó, ngài sẽ phải bị suy yếu ngay trên đường nhân đức. Nguyện gẫm là nguồn và là đầu của mọi nhân đức. Nó dạy ta biết hãm mình; giống như một tấm gương bắt ta thấy, cả những vết nhơ nhỏ nhặt nhất trong tâm hồn. Và khi chúng ta cố gắng tránh những vết nhơ này cách nghiêm chỉnh, thì chắc chắn ta sẽ không rơi vào những tội nặng hơn. Có nhiều cách thức nguyện gẫm: cầu nguyện bằng lời – bằng tâm tình – hay bằng chiêm niệm. Sau đây là cách cầu nguyện có lẽ thích hợp (1) nhất cho nhà thừa sai: Tâm hồn điều hoà những tiếng động náo nhiệt của lý trí và con tim, không mải mê lý sự, cũng không để tình cảm chi phối, nhưng đặt mình trước mặt Thiên Chúa như một kẻ ăn xin (2), như một thụ tạo yêu mến Tân Lang của mình.
Nhưng tinh thần cầu nguyện sẽ chỉ được ban cho ai cậy dựa vào ơn Chúa và chính Người sẽ còn gợi ra cho mỗi người con đường phải theo. Vậy nên điều quan trọng là vị thừa sai phải chú tâm xem xét mình theo cách nào trong ba cách nêu trên. Hạnh phúc cho ai khi cầu nguyện không bị lệ thuộc những tạo vật khác, không thuộc về mình nữa, nhưng phó thác hoàn toàn trong tay Thiên Chúa, để rồi không phải kẻ ấy sống nữa, nhưng chính là Chúa Kitô sống trong kẻ ấy; cũng không phải kẻ ấy hành động, nhưng là Thiên Chúa hành động qua kẻ ấy; đến nỗi mà kẻ ấy không hành động theo xác thịt, nhưng theo sự thúc đẩy của Thần Khí.
Vẫn biết rằng, tất cả cuộc sống của nhà thừa sai phải là một sự cầu nguyện liên lỉ, và phải gắn bó từng giây phút với Thiên Chúa, nhưng mỗi ngày cần dành ra một thời gian nhất định để thờ lạy Thiên Chúa: Ít ra là hai tiếng, đúng theo luật được áp dụng cho phần đông các tu sĩ thừa sai, và theo thói quen còn giữ đến nay nhờ những vị nhiệt tình làm tròn bổn phận tông đồ. Thế nên đừng bao giờ bỏ với bất cứ lý do nào sự thực hành bổ ích này, trừ khi có sự bó buộc chính đáng hay vì bác ái. Ngay cả ở thời đại chúng ta, không thiếu gì những sứ giả Tin Mừng, hết lòng hiến dâng, như các thánh Tông đồ, cho việc cầu nguyện và rao giảng. Ban ngày nếu bận rộn và mệt nhọc không có thời gian để cầu nguyện thì ban đêm họ kiếm cách bù đắp lại, và như thế, họ cảm thấy hạnh phúc hơn khi ban ngày đã hoàn toàn dùng thời giờ để làm vinh danh Thiên Chúa. Còn ban đêm họ không ngừng tạ ơn Vị Hôn Phu trên trời. Nếu phải so sánh với người đời vốn thích ăn chơi thâu đêm suốt sáng, thì những Linh mục gương mẫu trên có thua kém gì. Cách làm này đã rất quen thuộc với Đức Giêsu Kitô, với các thánh Tông đồ, với các nhà truyền giáo và đặc biệt với Thánh Cả Fr. Xavier, như chúng ta đọc biết trong tiểu sử của ngài, ngài đã rất thường cầu nguyện thâu đêm.
Nếu mối lo lắng của các vị thừa sai phải là cứu rỗi những người được giao phó cho mình, không bao giờ tự cho phép mình một phút nghỉ ngơi, thì họ cũng phải tránh nhiệt tình thái quá, khi vừa đến xứ truyền giáo. Họ không bắt tay vào những công việc lớn lao như thế trước khi được chuẩn bị kỹ càng, theo gương Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta. Người là Đấng đầy Thánh Thần ngay từ lúc chào đời. Lẽ ra Ngài đã có thể hoán cải cả thế giới khi Chúa Cha tôn vinh Ngài là bậc thông thái của muôn dân, tuy nhiên, dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, Ngài đã lui vào sa mạc để chuẩn bị hơn là sứ vụ Ngài (Mt 4,1).
Mặt khác, thái độ này cần được bắt chước không để ca tụng, do đó cũng cần nên xem xét những tấm gương của quá khứ cũng như hiện tại. Các thánh tông đồ đã sống ba năm theo học Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, vậy mà Người truyền cho họ chỉ được rao giảng Tin Mừng sau một thời gian tĩnh tâm ở phòng Tiệc Ly, cho đến khi nhận được sức mạnh từ trên cao.
Thánh Gioan, người tiền hô của Chúa Giêsu, mặc dù đã được chúc phúc ngay trong lòng mẹ, cũng đã lui vào nơi hiu quạnh của sa mạc cho đến ngày ngài xuất hiện công khai. Ở đó, ngài đã sống một cuộc sống hoàn toàn thần thiêng, trước khi xuất hiện dọn đường cho Đấng Cứu Thế (Lc 1,80). Ở thời kỳ gần với chúng ta hơn, thánh Fr. Xavier đã lui vào những nơi hoang vắng, nơi núi cao để kín múc ở đó một tinh thần mới và chuẩn bị ở đó, để dâng lên Thiên Chúa hoa trái đầu mùa qua việc hi sinh và hiến thân cho sự nghiệp truyền giáo của ngài. Cuối cùng, các thừa sai dũng cảm khác, khi đến miền truyền giáo, đã giữ đời sống thầm lặng cho đến khi dân chúng nhận ra những nhân đức sáng chói của các ngài và tự động tìm đến với các ngài. Chỉ đến lúc đó các ngài mới trình bày cho họ giáo lý Tin Mừng: Do đó vị thừa sai phải ý thức rằng mình không có công trạng, cũng không nhân đức gì so với các thánh rao giảng Tin Mừng này, và biết mình cũng bất tài trong công việc của người tông đồ, nếu phải lui vào nơi hiu quạnh trước khi hành động, như vậy ngài sẽ không liều mình ban phát ân sủng để rồi làm thiệt hại chính mình, và làm hỏng tất cả vì hành động không đúng lúc và chưa tìm ý Chúa.
Vậy nên, ngay khi vị thừa sai đặt chân đến xứ truyền giáo sẽ được giao phó cho mình, ngài mau mắn đưa mắt nhìn lên Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta, Người Mục Tử, để được chúc phúc. Và khi hoàn cảnh cho phép, ngài sẽ rút lui để tĩnh tâm hầu tích luỹ những nhân đức cần thiết, ngài sẽ dâng lên Chúa Kitô các linh hồn được giao phó cho ngài, và đem hết mình dạy dỗ họ, ngài vui sướng vì đã đổ công sức chăm lo cho các linh hồn, và có thể một ngày nào được đổ máu mình nữa.
Như vậy, vị thừa sai tìm thấy trong tinh thần khổ chế và cầu nguyện một phương cách hoàn thiện cho chính mình, thì cũng chính những phương thức ấy sẽ giúp ngài làm việc có hiệu quả hơn trong việc cứu rỗi và thánh hoá kẻ khác. Kinh nghiệm hàng ngày cho ta thấy mọi thứ đều thuận lợi cho những ai truyền giáo bằng đời sống khổ chế và cầu nguyện, đồng thời kinh nghiệm cũng dạy ta thiếu những nhân đức này, mọi sự sẽ tan thành mây khói, do đó ta có thể kết luận rằng đời sống khổ chết và cầu nguyện là nền tảng chính yếu của việc truyền giáo.
Quí vị có muốn một lý lẽ rõ ràng hơn và ấn tượng hơn không? Chúng ta hãy theo Chúa Giêsu, Chúa đang chuẩn bị sứ vu trong sa mạc. Vừa tách mình khỏi đám đông Ngài đã hành xác vô tội của ngài bằng những cuộc chay tịnh và khổ chế, và Ngài chuyên tâm tỉnh thức và cầu nguyện. Chính đó là gương để lại cho các nhà rao giảng Tin Mừng, hầu họ lấy đó làm nền tảng rao giảng.
Chắc hẳn, vị Tông đồ chỉ trưởng thành qua vất vảvà khổ hạnh và mang lại những hoa quả tốt đẹp làm vinh danh Thiên Chúa, như lời thánh tông đồ: “Sự chết hoạt động nơi chúng tôi, còn sự sống thì lại hoạt động nơi anh em” (2 Cr 4,12). Dường như ngài muốn nói: sự chết xâm chiếm thân xác hay chết của chúng ta, nhưng cái chết hàng ngày của chúng ta làm cho chúng ta tái sinh ở cuộc sống thần thiêng. Nếu hạt lúa mì không rơi xuống đất và không chết đi, nó vẫn trơ trọi một mình. Cũng vậy, đối với vị thừa sai: nếu trước tiên ngài không chết cho chính mình bằng khổ chế để sống cho Thiên Chúa và cho tha nhân, chắc hẳn, ngài sẽ bị cô lập và không sinh hoa trái. Nếu trước khi gieo Lời Tin Mừng, chưa cầu nguyện để làm sa xuống từ trời làn sương tuyệt diệu của Thiên Chúa, cánh đồng truyền giáo của ngài sẽ khô cằn.
Vị thừa sai thật ra chỉ là một dụng cụ bình thường của Thiên Chúa. Cho nên ngài chỉ có thể sinh lợi khi nhờ vào cầu nguyện để hợp nhất với Đấng đã hối thúc và trợ lực ngài lên đường. Thật vậy, làm sao ngài có thể hiểu được danh hiệu “được sai đi”, nếu vị thừa sai không lắng nghe tiếng của Đấng phái ngài đi? Làm sao ngài có thể thực hiện ý Chúa nếu ngài không đủ khả năng tìm ra trong cầu nguyện? Làm sao ngài có thể làm nhiệm vụ người trung gian giữa Thiên Chúa và loài người, nếu ngài không biết cách giao hòa các thụ tạo với Đấng Tạo Hoá bằng lời cầu nguyện? Làm sao ngài có thể sửa dạy các con chiên nếu ngài không lĩnh hội sự khôn ngoan của Thiên Chúa từ nguồn mạch chiêm niệm? Cuối cùng, nếu không có cầu nguyện, làm sao ngài vượt qua được mọi khó khăn, ngoài sức con người, bản chất tự nhiên con người này phải ăn nhịp với tác động của Chúa Thánh Thần, bằng đời sống khổ hạnh? Cho nên, phải nhận rằng hai nhân đức kể trên là hai đức tính nồng cốt của vị thừa sai và của sứ vụ.
Cho nên vị thừa sai, để thanh tẩy mình khỏi mọi vết nhơ, hãy cùng Môsê tháo giày ra trong nơi hiu quạnh, phải cởi bỏ con người cũ cùng mọi quyến luyến xác thịt, phải chế ngự thân xác mình bằng chay tịnh và bắt nó phải phục tùng tinh thần bằng sự khổ chế, và bắt tinh thần phải tùng phục Thiên Chúa bằng cầu nguyện. Như vậy ngài sẽ xứng đáng được đàm đạo với Thiên Chúa, và để Người trao ban lề luật mà sau đó ngài sẽ làm cho các dân tộc phải tuân giữ.
Còn về việc khinh chê những phương tiện thuần tuý trần thế, có vô số điều phải nói, và vì tầm quan trọng của nó đến nỗi mà để rút ra mọi kết qủa mong muốn, sẽ phải bàn một cách chi tiết. Thiết tưởng cần dành cả một chương tiếp theo.
“Kỳ dư, anh em hãy phấn chấn mạnh mẽ trong Thiên Chúa, trong sức oai hùng của Ngài. Hãy mặc lấy giáp binh của Thiên Chúa, để anh em có thể đứng vững trước những mưu chước của ma quỉ. Vì chúng ta không phải chiến đấu với phàm nhân, nhưng là với những quyền lực thần thiêng, với những bậc thống trị thế giới hắc ám này, với những thần linh ác quái chốn hoành thiên” (Ep 6,10-12).
Những lời trên của thánh tông đồ rõ ràng là trước tiên nói với các nhà thừa sai, để cảnh giác họ rằng ma quỉ là những kẻ thù không thể giải hoà bậc nhất. Chính vì chúng hiểu rằng những nỗ lực của các nhà thừa sai sẽ lấy mất của chúng cái vương quyền của chúng trên thế gian và khôi phục triều đại của Chúa Kitô trong lãnh địa của chúng. Thánh tông đồ Phaolô trong đoạn trích trên, lo lắng với tư cách là lãnh đạo cao hơn dạy dỗ các nhà truyền giáo biết vận dụng những vũ khí thích hợp nhất, để tự bảo vệ cũng như để tấn công kẻ thù của mình, như thế nhằm để làm cho chiến thắng hoàn toàn chắc chắn.
Sức mạnh của ma quỉ. Trước đây đã bị bẻ gãy nhờ cuộc tử nạn của Chúa Kitô, chỉ còn lại với chúng như vũ khí là sự xảo trá và mưu mẹo. Mặc dù mưu mẹo của chúng thì nhiều, dẫu vậy ta có thể tóm tắt chúng lại thành hai thư: Ảo tưởng và đe doạ. Chính bằng ảo tưởng mà chúng thường cám dỗ những kẻ dốt nát, những kẻ đơn giản, những kẻ tò mò, những kẻ kiêu ngạo, tóm lại là mọi kẻ không biết tự giữ chính mình bằng sự chú ý không hề giảm sút. Và chính bằng đe dọa mà chúng hăm dọa và tác động đến kẻ nhút nhát, những kẻ nhát gan, những kẻ hèn nhát, tóm lại là mọi kẻ mà vinh quang Thiên Chúa, việc cứu rỗi người khác, việc cứu rỗi chính mình cũng không thể lay chuyển như đáng ra phải như thế. Đó là lý do tại sao thánh Phaolô cổ vũ các thánh tông đồ cầm lấy trong mọi cơn cám dỗ, tấm khiên Đức Tin (Ep 6,17), mà nhờ ánh sáng đức tin các ngài sẽ nhận biết và vạch trần tinh thần hão huyền của những ảo tưởng ma quỉ. Thánh Phaolô còn cổ vũ họ đội mũ cứu rỗi (Ep 6,16) nghĩa là đội mũ hi vọng; như thế, ngờ vực chính mình và phó thác hoàn toàn vào Thiên Chúa, các ngài sẽ coi thường các hình nộm của Satan, sự bình tĩnh của các ngài sẽ bẻ gãy những cố gắng của con quái vật. Các ngài sẽ khinh rẻ những đe dọa của chúng, sẽ tựa vào những sự trợ giúp trên trời và sẽ chống cự lại sự sợ hãi với những nỗ lực tận cùng.
Được vũ trang như thế, vị thừa sai mới có thể chống lại ma quỉ. Nhưng để thắng chúng cách tốt hơn, vấn đề là phải tấn công; thánh tông đồ Phaolô như vậy đã có lý khi chỉ ra lưỡi gươm tinh thần, nghĩa là Lời của Thiên Chúa (Ep 6,17). Thật vậy, không gì bằng Lời Chúa để bẻ gãy những nỗ lực của ma quỉ: vừa khi chúng nghe đựợc Lời Chúa, sự chán nản và sự mắc cỡ xâm chiếm chúng và chúng bỏ trốn. Những Lời Thánh Thiêng của Kinh thánh kể lại quyền lực của Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta, thì cũng như chừng ấy mũi tên bắn hạ quyền lực của ma quỉ và bắt chúng phải chịu những đau khổ và những tra tấn mới, trong một thất bại thảm hại. Tuy nhiên, cũng không thiếu những vũ khí thiêng liêng khác. Thánh Antôn gợi ý cho chúng ta, khi ngài khích lệ các bạn bè của ngài như thế này: “Hãy tin tôi, hỡi những người anh em của tôi, Satan sợ hãi sự tỉnh thức của những người sùng đạo, những sự cầu nguyện của họ, sự ăn chay của họ, sự khó nghèo tự nguyện của họ, lòng nhân từ và sự khiêm tốn của họ, nhưng nhất là tình yêu mãnh liệt đối với Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta: Chỉ một dấu Thánh Giá đã đốn ngã chúng và làm chúng trốn chạy” (Lect. Du 2e Noct. De L’off.)
Tuy nhiên, trước khi vị thừa sai được trang bị lưỡi gươm thiêng liêng, lao vào đấu trường việc cần thiết là ngài phải khoác lên người áo giáp công lý (Ep 6,14) cho phép ngài đánh được mà không bị quân thù đánh lại. Bởi nếu quân thù thấy được nơi đối phương tật xấu nhỏ nhất hay là sự thiếu vắng các nhân đức nhỏ nhất, nó sẽ không bỏ lỡ mà không tấn công kẻ tấn công nó, ăn miếng trả miếng với đối phương và làm cho vũ khí của chính đối phương quay lại chống anh ta.
Một khi đã mặc áo giáp công chính, mang sẵn chiếc khiên Đức tin và chiếc mũ sắt của sự cứu rỗi, được trang bị lưỡi gươm thiêng liêng và lại càng tự tin hơn nữa khi mưu mô ma quỉ đã được mình biết nhiều hơn, khi người lính dũng cảm của Chúa Kitô khai mạc công cuộc truyền giáo của mình bằng những lời tuyên chiến can đảm chống lại ma quỉ; khi ngài nện cho chúng những cú đấm mạnh mẽ của những nhân đức và lời cầu nguyện của ngài; khi ngài quấy rối chúng bằng những mũi tên của Thánh Kinh. Sau cùng, khi ngài đuổi chúng về vương quốc bóng tối của chúng những kẻ chiếm đoạt gia tài của Đức Giêsu Kitô: những quyền lực hoả ngục phải ngừng quấy phá các xứ truyền giáo, gây phiền nhiễu những người đã trở lại hoặc sẽ trở lại bằng những trò quỉ ám của chúng; hoặc ngăn cách họ bằng những mối khiếp sợ là những đe dọa.
Khi vị thừa sai chuẩn bị giảng đạo, ngài sẽ đọc một mình công thức trừ quỉ để xua đuổi chúng và biến những cuộc tấn công của chúng trở thành vô tác dụng, ngài sẽ ngăn cản chúng bóp ngạt giọng ngài trong suốt buổi giảng đạo, bịt tai và khép lòng những người nghe, hay là trộn lẫn cỏ lùng vào hạt giống tốt là Tin Mừng được loan báo.
Cuối cùng, nếu một ngày nào đó xảy ra cho ngài phải có việc cần giải quyết với những kẻ bị quỉ ám, ngài sẽ tuân thủ cẩn thận mọi hướng dẫn trong sách nghi lễ của Giáo Hội. Sau đây thêm vài lời khuyên mà ngài còn có thể dùng cách có lợi: ngài sẽ không lao vào loại cuộc chiến này mà không cảnh giác chính mình và không tràn đầy lòng tin tưởng vào Thiên Chúa; ngài sẽ không thể đẩy lùi những lời nguyền rủa của ma quỉ bằng những lời khinh bỉ, nhưng bằng những cử chỉ rất khiêm tốn, kiên nhẫn, khoan dung và nhẫn nhục; dầu cho sự chống cự của ma quỉ có mãnh liệt đến đâu, tuyệt nhiên ngài sẽ không bao giờ đánh mất hi vọng chiến thắng. Tóm lại ngài đừng đặt ra một câu hỏi quá tò mò và vô ích nào.
Liên quan đến ma quỉ, đừng để nó được phép nói năng tuỳ thích. Nếu nó nói mà không được mời, những lời nó nói như thế sẽ đều dối trá, nhất là khi những lời nói đó có tính chất phỉnh nịnh. Còn nếu ma quỉ than phiền về những cơn dày vò của nó, với tư cách nó là kẻ thù truyền kiếp của Thiên Chúa, cấm không cho nó được hưởng sự thương hại nào; nếu xảy ra trường hợp nó xui khiến những người bị quỉ ám làm những điều tủi hổ, thì phải trừng phạt nó rất nghiêm khắc.
Đối với những người bị quỉ ám, ngài sẽ cổ vũ họ kiên nhẫn, ăn năn trong lòng, biết chịu đựng, ngài sẽ tránh làm họ dao động hoặc làm họ tức giận bằng những cử chỉ hoặc lời nói. Khi ngài chữa trị cho họ, ngay cả trong lúc giải tội, ngài sẽ cố gắng phân biệt điều gì từ họ mà ra và điều gì từ ma quỉ, và khi có sự nghi ngờ, ngài sẽ truyền cho nó im lặng ngay lập tức. Cuối cùng, khi họ đến xin xưng tội, ngài sẽ mời họ bắt đầu xưng tội bằng việc ăn năn tội theo cách này, giả sử mà buổi xưng tội của họ ngộ xảy ra là bị quấy rầy bởi thủ đoạn của ma quỉ, thì ngài dầu sao cũng có thể xá tội cho họ.
Kinh nghiệm về những nơi chốn của vị thừa sai chuẩn bị thi hành sứ vụ dường như là một trong những chìa khoá thành công của ngài tại xứ truyền giáo. Vậy nên khi vừa cấm phòng xong, ngài cố gắng hết sức để tìm hiểu tình trạng của nơi truyền giáo. Cũng như đối với người trồng trọt, việc quan trọng là tìm biết bản chất của khu đất, để cày bừa vào thời gian thích hợp và gieo trồng giống nào cho phù hợp, thì cũng vậy vị thừa sai có bổn phận làm từng việc vào thời gian thuận tiện, phải nghiên cứu cá tính của những dân tộc mà ngài phải gieo vãi và làm cho nẩy mầm hạt giống Tin Mừng.
Cho nên ngài sẽ nghiên cứu cặn kẽ phong tục địa phương và các sở thích của dân chúng. Ngài sẽ xem xét coi dân chúng có sẵn sàng đón nhận đức tin và có đủ vững vàng trung thành với đức tin ấy không; họ có khả năng tập tành nhân đức không, hay họ chỉ mải mê dâm đãng; ngài sẽ tìm kiếm đức tính được ca tụng nhất nơi họ hoặc thói xấu nổi bật nhất nơi họ; ngài sẽ lo đến điều có thể đóng góp nhiều nhất trong việc làm cho các tâm hồn gắn bó với ngài. Ngài sẽ tìm hiểu đặc biệt về thái độ của vua chúa đang cai trị: hoặc có lợi hoặc là chống lại đạo Chúa; qua đó ngài sẽ phán đoán nên hoạt động ở trong bóng tối hoặc nên xuất hiện công khai thì thích hợp.
Ngài sẽ cố gắng khám phá mọi thứ liên quan đến tôn giáo của dân địa phương, những nghi lễ và những sai lầm phổ biến nơi họ, ngài sẽ tìm hiểu về kiến thức khoa học của các thầy cúng, về cách thức hành động của họ, về uy tín họ có được nơi dân chúng, về những trò bịp bợm và những mưu mẹo của họ; cách thận trọng, ngài sẽ tìm kiếm thử xem giữa những ông thầy đó, có người nào đó có nếp sống rất gần với cách sống mà đạo Kitô đòi hỏi. Phải lưu ý ngọn đuốc đức tin đã được mang đến những trung tâm chính của các xứ truyền giáo trước đây rồi. Từ đó, có lý do chúng ta tìm hiểu kỹ thời kỳ mới du nhập đạo, lịch sử xuất phát, những phương thức được các đấng thừa sai dùng để củng cố ngọn đuốc đức tin và chủ yếu những người đã thành công nhất; cuối cùng nếu có sự gián đoạn trong việc phát triển các xứ truyền giáo, thì lý do là gì và lúc đó cách ứng xử của các thừa sai ra sao?
Về tình hình hiện tại của xứ đạo, ngài sẽ tìm hỏi số tín hữu, số nhà thờ, số thừa sai và Thầy giảng, về cách sống và dạy dỗ của họ, về những qui chế Giáo Hội hiện hành nơi đó, về những qui chế chưa được ban hành, về qui chế bị vi phạm hoặc đã bị huỷ bỏ do tập quán đặc biệt.
Hơn nữa, ngài sẽ tìm hiểu chính quyền dân sự, nhưng với sự đúng mức mà sự việc đòi hỏi để hướng dẫn cộng đoàn của mình, lợi thế của Giáo Hội và việc thi hành đều đặn của chức vụ tông đồ. Nhưng vì với những việc trên, vấn đề cũng khá dồi dào, ngài chỉ cần, lúc đầu, biết những nét lớn là được rồi.
Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta đã không sai các thánh Tông đồ đi rao giảng Tin Mừng khắp thế gian mà không trước tiên ban cho các ngài ơn nói các thứ tiếng (Cv 2,4). Điều đó rõ ràng cho thấy sứ vụ rao giảng kéo theo sự cần thiết học các thứ tiếng, bởi vì Thiên Chúa, trong sự khôn ngoan của Ngài, đã muốn rằng đức tin lan truyền bằng phương thức rao giảng. Thật vậy, “Ấy vậy, tin là do bởi đã được nghe, còn nghe là nhờ việc rao giảng Lời Đức Kitô” (Rm 2,17). Dù cho việc học tiếng có gian khổ thế nào, thì các vị thừa sai, phải thực hiện nó cách vui vẻ, ngài sẽ không sinh ra uể oải trong sự trơ lì giống như những kẻ khiếp sợ do khó khăn, cứ đứng không và vô ích, giữa mùa gặt, do không biết tiếng. Gương thánh Fr. Xavier cho thấy khá rõ: ngay cả khi được sự trợ giúp của người thông dịch khéo nhất, vị thừa sai cũng ít thành công, nếu chính ngài không tinh thông ngôn ngữ của xứ đó (Tursel., Vita S.Fr. Xav., lib. 7, c. 2).
Cho nên, vị thừa sai sẽ không chán mà phải chuyên chú vào công việc này, bao lâu mà sự cần thiết đòi hỏi. Và ngài sẽ không được quên là ngài chỉ nhằm vào việc học ngôn ngữ bác học và văn chuơng đến mức mà sao nhãng ngôn ngữ bình dân được quảng đại dân chúng sử dụng, ngài phải làm cho, không chỉ những nhà thông thái mà cả những người thất học cũng có thể hiểu ngài nói. Trong toàn bộ việc này, vả lại, ngài sẽ phải trông chờ nhiều hơn vào sự cầu nguyện hơn là chính việc học của mình.
Chắc chắn, không có gì là lạ khi các nơi truyền giáo không đem lại kết quả bao nhiêu. Kết quả đó thường là vì, khi thực hiện công trình của Thiên Chúa, người ta lại hoàn toàn trông chờ vào những phương tiện thuần tuý con người thay vì ra sức cầu nguyện, hãm mình và sống một cuộc sống gương mẫu. Tính chất của những phương tiện thuần tuý con người này tự nó đủ cho thấy rằng cách tốt nhất để sử dụng chúng, trong việc thiết lập cơ sở truyền giáo, chính là càng ít cậy dựa vào nó càng tốt. Đức Giêsu Kitô, theo lệnh Chúa Cha, đã mang Tin Mừng đến cho thế giới. Để làm việc đó Người đã không cần ai cả; chính ngay giữa mọi thứ mâu thuẫn có thể có mà Tin Mừng của Người đã được gieo vào thế giới. Các thánh Tông đồ, Người đã sai đến thế gian như chính Người đã được Chúa Cha sai đến, Người muốn các ông cũng phải giống như Người. Do đó ta sẽ thấy khác biệt cách ứng xử của Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta và của các Tông đồ như thế nào, sánh với thái độ của những thừa sai chỉ cậy dựa vào hoạt động của con người; trong khi Đức Kitô truyền cho họ phải phó thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa (Luc 10, 4). Thánh Ambroise đã nói với chúng ta điều đó. (lib. 6, in Luc., cap.9).
“Người loan báo Nước Thiên Chúa phải như thế nào thì Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta đã chỉ thị rõ trong Tin Mừng: hãy ra đi không gậy, không bao bị, không giày dép, không bánh và không tiền bạc, nghĩa là ngài không tìm những hỗ trợ phàm tục, nhưng mạnh mẽ nhờ đức tin, ngài hãy xác tín rằng càng ít sử dụng chúng thì càng có lợi”.
Những phương tiện con người thì không phù hợp với những lời khuyên của sự khôn ngoan của Chúa và của chính tinh thần Tin Mừng. Thánh Phaolô chứng minh điều đó rất hay, bằng gương sống của ngài cũng như bằng một lập luận xác đáng. Ngài nói trong thư gửi tín hữu Côrintô: “Thưa anh em, anh em thử nghĩ lại xem: khi anh em được Chúa kêu gọi, thì trong anh em có mấy người khôn ngoan trước mặt người đời, đâu có mấy ngưòi quyền thế, đâu có mấy người quí phái” (1 Cr 1,26). Và sau đó ngài nói thêm: “ngõ hầu đừng có xác phàm nào dám vênh vang trước mặt Thiên Chúa” (1 Cr 1,29), “để chứng tỏ quyền năng phi thường đó phát xuất từ Thiên Chúa, chứ không phải từ chúng tôi” (2 Cr 4,7). “Kẻo Thập Giá của Đức Kitô khỏi trở nên vô hiệu” (1 Cr 1,17). Nghĩa là, theo Thánh Anselme “để người ta không coi cuộc khổ nạn của Chúa Kitô như hão huyền và vô ích, mà đúng là trong cuộc khổ nạn ấy có tất cả ơn cứu chuộc và ơn giải thoát cho mọi người” (x. 1 Cr 1). Thánh Ambroise nói thêm: “Chính sự rạng rỡ của chân lý phải vinh thắng chứ không phải sự hùng biện của những bài diễn văn, nếu không người ấy có vẻ như lôi kéo niềm tin bằng sự tế nhị, mua miền tin bằng tiền bạc, chiêu dụ môn đồ nhờ vào ảnh hưởng hay chức vị của mình” (Lib. 5 in Luc. VI).
Vả lại, kinh nghiệm cũng cho thấy những sự giúp đỡ thuần túy con người gây hại nhiều hơn là đem lại lợi ích cho việc truyền bá đức tin; việc sử dụng chúng chưa bao giờ làm người ta chấp nhận Đạo Thật, nhưng đúng hơn chỉ là chạy theo cái bóng hoặc là bóng ma của Đạo thôi. Chính chúng làm suy yếu đức tin của chính những người thợ Tin Mừng, chúng làm giảm niềm hi vọng của họ, cắt đứt hay làm chậm trễ sự hứng khởi của Tình yêu đáng lý phải liên tục nâng họ lên tới Thiên Chúa. Thât vậy, sa sút tinh thần vì những điều chóng qua, các ngài quên hướng về mặt trời đích thực của đức tin, thiếu lòng hăng say đã từng thúc đẩy các tông đồ và làm phong phú các công việc của các ngài, các vị thừa sai không thể cho ra đời một Giáo Hội thực sự có thể đứng vững; Hệ qủa là chính các ngài khô héo đi như một thân cây héo hon và tàn lụi khi ánh nắng mặt trời không làm chúng tươi xanh nữa. Cũng thế, đó đây, ở những tỉnh và những vương quốc vốn nhờ các phương tiện con người này để dẫn đến đức tin, thì ngay khi những hoạt động quá tự nhiên này không còn tác dụng nữa, người ta đã bỏ đạo; hay là, ngay khi cơn sóng gió bách hại nổi lên, do đức tin không đâm rễ sâu, nó đã bị lật đổ không khó khăn gì và cũng không để lại dấu vết gì.
Cho nên, thôi câm đi! Những tiếng nói bênh vực cách táo bạo rằng thời buổi này đã xa thời Giáo Hội sơ khai, rằng thời kỳ của những phép lạ đã qua rồi, và rằng, vì thế những phương tiện vạch đường đi cho Tin Mừng phải khác với những cách thức mà theo chứng cứ lịch sử, các thánh đã dùng ngày xưa.
Một thừa tác viên trung thành của Tin Mừng đừng quên rằng ở thời đại chúng ta, ngài vẫn có các dân tộc để dạy dỗ, những lầm lạc để bác bỏ, và cũng một Tin Mừng để rao giảng. Cho nên ngài đừng tìm kiếm những chỗ dựa khác với những chỗ mà Tin Mừng gợi lên cho ngài. Vả lại, ngài cần xác tín rằng cánh tay của Thiên Chúa vốn đã dài và rằng điều còn thiếu, không phải là nhờ phép lạ, nhưng là những con người tông đồ xứng đáng phục vụ Thiên Chúa như là những dụng cụ để thực hiện phép lạ ấy; và thực vậy, ngay ở những thời gần đây, đã không thiếu những phép lạ do lòng đạo đức của những nhân vật lỗi lạc. Cho nên, ước gì ngài có được lòng tin rằng, khi cần thiết, những phép lạ của lòng nhân từ Chúa sẽ không bao giờ thiếu cho ngài. Tuy nhiên, sự tin tưởng này phải luôn luôn đi kèm với sự khiêm tốn, không bao giờ quá liều lĩnh hay quá tự phụ để đòi những phép lạ tức thời, nhưng phải biết chờ đợi.
Đôi khi, nếu các thánh dường như đã dùng những phương tiện khác, thì phải biết rằng những phương tiện ấy trước hết đã được thánh hóa bằng lời mời gọi của Thiên Chúa. Các ngài đã cậy nhờ chúng cách tình cờ mà không quyến luyến chúng. Các ngài chỉ đặt lòng tin vào Thiên Chúa mà thôi, Đấng đã mời gọi các ngài sử dụng những phương tiện đó, và sau khi đã sử dụng, các ngài đã từ bỏ chúng ngay.
Tất cả những phương tiện con người thì không cùng một tính chất, tất cả chúng không có cùng tính cách như nhau. Vì thế chúng ta cần tuần tự phân tích và xác định tính cách của từng phương tiện chính, hầu trong thực hành, có thể nói, chúng ta thấy ngay những qui định rõ ràng phải theo. Trong những phương tiện này, một số có tính vô thưởng vô phạt, đôi khi chúng có thể trở thành lương thiện và ta có thể sử dụng chúng, nếu Thiên Chúa ban phép; nếu như thế chúng còn có thể được gọi là phương tiện con người nữa không? Một số thì xấu và không được phép làm trong mọi trường hợp: việc rõ nhất là thương mại, bởi vì nó làm tổn hại nặng nhất đến thanh danh của sứ vụ tông đồ. Còn gì đáng xấu hổ hơn cho người tông đồ vốn hướng lòng về trời, lại còn mải mê với những công việc trần tục? Đó chính là ngoái lại sau khi đã tra tay cầm cày, và lại gắn bó với những cái vặt vãnh đê hèn của thế giới này. Còn gì bất xứng hơn sứ giả của Chúa Kitô, là nô lệ hoá việc rao giảng Tin Mừng dưới những hoạt động thương mại?
Tuy nhiên, nhiều lần chúng ta đã nghe, và chính một vài vị thừa sai đã không xấu hổ bảo vệ chủ trương này: trong miền nọ, các điểm truyền giáo hoàn toàn lệ thuộc vào sự buôn bán, đến mức mà sự thành công của những nơi này chỉ thọ được bao lâu mà việc buôn bán còn thịnh vượng. Làm sao có thể truyền bá một sai lầm tai hại như thế cho tinh thần Tin Mừng? Và, nói thẳng ra, một tà thuyết chống truyền giáo? Như vậy chẳng lẽ bao nhiêu khoản giáo luật, bao nhiêu sắc lệnh của các Công Đồng, bao nhiêu các Hiến Chế của các Đức Giáo Hoàng, đã hoàn toàn cấm chỉ thương mại và việc buôn bán trần tục đối với mọi tu sĩ, và ngay cả với những giáo sĩ bình thường đều vô ích cả sao? Và việc cấm đoán này không chỉ nhắm đến những hoạt động thương mại, nhưng còn cấm quan tâm đến việc ấy và ngay cả ước muốn cũng bị cấm: khoản luật nói rất rõ, việc buôn bán không bao giờ được phép. Không vô ích khi nghiên cứu việc Đức Urbain VIII đã làm. Khi xem xét các xứ truyền giáo tại Nhật Bổn và Trung Hoa, ngài đã nghiêm cấm các thừa sai không được làm thương mại, dưới bất cứ hình thức nào, đích thân hay qua trung gian, đứng tên mình hay đứng tên cộng đoàn, trực tiếp hay gián tiếp, dù cho cái cớ hoặc lý do mà các ngài tô vẽ cho sự vi phạm là gì, nếu không tuân thủ thì bị dứt phép thông công (latae sententiae) có hiệu lực tự khắc và chịu hình phạt khác thuộc loại nặng nhất. (Ex debito past. Off., 22 Février 1633)
Thánh Ambroise rất có lý khi nói: “luật dân sự đã biết cấm người nào đang phục vụ đất nước ở trong quân ngũ không được dính dáng đến các vụ kiện tụng và buôn bán ở thị trường” (de Officiis, lib I, c.36). Huống chi người đã được tuyển mộ vào hàng ngũ những người phục vụ đức tin sẽ phải tránh mọi thứ dính dấp tới việc buôn bán đến chừng nào! Việc buôn bán có hại cho đạo đến mức này: một vị thừa sai mải mê với công việc buôn bán có thể làm người ta xa lánh đạo nhiều hơn là một nhà rao giảng chân chính có thể chinh phục người ta vào đạo. Và tốt hơn cho vị thừa sai là trở về quê hương hay là buộc phải đến một nơi xa xôi tận cùng nào đó, nếu còn tiếp tục nghề buôn. Vị thừa sai không những chỉ bằng lòng tránh xa trọng tội này, mà còn sợ cả cái bóng của nó nữa. Một vị kỳ cựu ở xứ truyền giáo Ấn Độ đã nói: “nếu cần một phép lạ để việc loan báo Tin Mừng có hiệu quả, thì phép lạ ấy là các sứ giả khi rao giảng tránh được mọi nghi ngờ là ngài ham mê tiền bạc hay tiếng đồn ngài sống vô luân” (Acista, de procur. Indorum convers., lib. 5, c. 22). Chúng ta kết luận: vị thừa sai sống giữa thế gian, giữa các thiên thần và loài người, nên phải cảnh giác không những không nhiễm vết nhơ buôn bán nhỏ nhặt nhất, mà còn không cho phép gây nghi ngờ là ngài hám lợi dù nhẹ nhất, làm hoen ố thanh danh của mình.
Chúng tôi không muốn tuyên bố ý kiến của mình ở đây về việc đã xảy ra ở Ấn Độ. Một số quan chức và thường dân đã sử dụng bạo lực để ép buộc người ta theo đạo và đã dùng tới cả vũ khí nữa. Chúng tôi cũng không muốn bàn cãi ý kiến của một vài thần học gia dạy rằng đôi khi cũng được phép ép buộc lương dân nghe theo Tin Mừng và bẻ gãy mọi cản trở hoặc mưu toan của kẻ thù truyền kiếp của Thánh Danh Chúa Kitô. Nhưng những phương cách rao giảng đạo Chúa này nơi lương dân thì không phù hợp với tinh thần của Bộ Truyền Bá Đức Tin, và chúng hoàn toàn bị cấm đối với chúng ta. Cho nên nhằm để tránh cho các thừa sai của chúng ta mọi thứ lạm dụng kiểu này, mà cũng chính là để bảo vệ Giáo Hội của các ngài, cần phải chỉ ra rằng loại bạo lực như thế không hợp với lối hành xử của Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta và của các tông đồ, khi thiết lập vương quốc Tin Mừng.
Đây này, Chúa Kitô đã muốn chế ngự thế gian, không phải bằng thanh gươm, mà bằng Thập giá. Ngài đã sai các Tông đồ như chiên vào giữa sói rừng (Lc 10,3); Ngài đã quở trách nghiêm khắc Phêrô vừa chém một nhát gươm để bảo vệ ngài (Mt 26,52). Cũng thế, thánh Phaolô đã nói: “Quả vì khí giới chúng tôi dùng để chiến đấu không thuộc về xác thịt, nhưng có quyền phép của Thiên Chúa, để triệt hạ các đồn lũy” (2 Cr 10,4).
Về phần các tông đồ, không phải chính bằng cách tuyên chiến với các vua chúa, bằng cách dựa vào những đội quân, hoặc bằng cách doạ giết chết, mà các ngài đã truyền bá Giáo Hội trên toàn thế giới, nhưng bằng sự phục tùng, sự đau khổ và sự đổ máu mình ra mà các ngài đã trồng, đã tưới và đã củng cố đức tin. Cho nên ước gì vị thừa sai tông đồ chú ý tự giữ gìn, không được thốt ra khỏi miệng ngài những lời nói như của nhiều vị thừa sai đã không xấu hổ thốt ra, theo họ không nên mong chờ gì từ những chìa khóa của thánh Phêrô để làm cho lương dân trở lại đạo, nếu lưỡi gươm của thánh Phaolô không đi trước mở đường. Trái lại ngài phải nhớ rằng, tuyệt đối cấm ngài không bao giờ được lập những toán quân dưới bất cứ hình thức nào; ngài phải dùng hết khả năng để làm biến tan mọi bất hòa ngay từ trong trứng nước. Nếu xảy ra là, để tự bảo vệ chính mình hoặc để bảo vệ Giáo Hội, các Kitô hữu muốn sử dụng vũ khí chống lại các bạo chúa, thì ngài không được cho phép điều đó trong bất cứ trường hợp nào, nhưng để xứng đáng là người sánh vai với thánh Tôma, Giám Mục Cantorbéry, ngài sẽ dạy bảo họ rằng ta không được bảo vệ Giáo Hội Chúa như là một pháo đài và đối với Giáo Hội, ngài phải sẵn sàng hiến mạng sống của mình (Brev. Rom., 2 Noct. Officii).
Trong mọi cuộc chiến tranh, ngài sẽ cư xử thận trọng, để lời nói cũng như cử chỉ của mình không thể tạo cớ cho mối nghi ngờ ủng hộ bên này hay bên kia của hai phía đang đánh nhau, ngài sẽ không quên mời gọi các dân tộc nên kiên nhẫn, biết lợi dụng những tai họa, và hết lòng ngài cầu nguyện xin Thiên Chúa ban xuống hòa bình.
Nếu những vị quốc vương hợp pháp kêu gọi tín hữu đi chiến đấu, ngài sẽ hết sức tránh không ngăn cản họ; trái lại, ngài sẽ động viên họ không nên từ chối hành động vâng lời này. Đó là cách đã được làm trong những thời kỳ đầu của Giáo Hội như lịch sử chứng minh, và điều đó đã xảy ra mặc dù có những cơn bách hại khốc liệt ở thời kỳ đó.
Chắc chắn là thanh danh và sự kính trọng thì cần thiết cho người thợ Tin Mừng, để làm cho người ta lắng nghe với lòng thành và không gặp khó khăn. Nhưng vấn đề là không phải cái uy tín được tìm kiếm bằng sự phô trương, bằng của cải, bằng sự xa hoa và tình bạn với các vua chúa, nhưng là uy tín đặt nền tảng trên nhân đức và sự thánh thiện. Uy tín do thánh đức thì xây dựng trong lúc uy tín thế tục thì phá hủy; một bên gợi lên sự khiêm tốn, bên kia nuôi dưỡng tham vọng; một đàng dạy bảo việc khinh chê mọi sự, khinh chê những của cải chóng qua, đặt chúng ta ở trên mọi thứ phù vân, đàng kia mua danh vọng bằng vàng, nuôi dưỡng sự ham mê của cải và tính kiêu ngạo. Cũng thế, một vị thừa sai mà nhân đức tạo nên uy tín của mình, làm cho người ta đánh giá cao đạo Chúa bằng gương lành ngài làm; trong khi người tạo danh tiếng bằng cách trông chờ vào sự khoa trương và vào những mưu mẹo loài người, thì chính vị ấy là tấm gương độc hại của những thói xấu mà vị ấy có bổn phận phải phá bỏ và nhổ tận gốc khỏi tâm hồn lương dân. Chắc chắn, người ta không quay lưng lại với sự xa hoa bằng cách tăng thêm vẻ huy hoàng tráng lệ của nó; người ta không tập từ bỏ của cải bằng cách tăng thêm chúng, cũng không từ bỏ thú vui bằng cách tích luỹ chúng. Nhưng ta rũ bỏ sở thích ham mê của cải bằng sự nghèo khó và sở thích ham vui bằng đời sống khổ hạnh.
Bằng những nhân đức này, vị thừa sai sẽ chinh phục được sự quí mến nơi các vua chúa và uy tín nơi các sắc tộc; ngài sẽ dễ dàng tranh thủ được thiện cảm của mọi người. Bằng cách khinh chê mọi thứ, ngài sẽ là đối tượng của sự thán phục và sự kính trọng của mọi người. Chúng ta hãy trích dẫn ra đây lời thánh Ambroise: “Tại sao Môisê thu hút được nhiều ảnh hưởng ở Aicập như thế? Bằng cách chạy trốn quyền hành, ông lại càng trở nên hùng mạnh trong mắt Pharaon, ông trở nên như một vị thần, nghĩa là một đối tượng đáng sợ cho chính nhàvua. Nhưng quyền lực này, đó chính là sức mạnh của sự thánh thiện. Và ngài cũng thế, nếu ngài muốn là vị thần, là một đối tượng khiếp sợ cho những người tội lỗi, và là đối tượng kính trọng cho các vua chúa, thì ngài hãy khinh chê những việc của thế gian và cố gắng ưa thích sự sỉ nhục của cuộc khổ nạn nơi Đức Kitô Chúa chúng ta hơn là những của cải và những phẩm tước”. Có những người trong khi tìm kiếm uy tín bằng những phương cách tầm thường, tốn nhiều công sức bằng lời nói và bằng hành động để chinh phục sự quí mến của con người hơn là có được đặc ân của Thiên Chúa. Tuy nhiên, uy quyền đích thực, bạn đồng hành của một nhân đức đã được thử thách, thì không phải là tặng phẩm của con người nhưng là của Thiên Chúa. Trong khi hạng người này nỗ lực theo đuổi quyền lực, thì thường xảy ra là, bằng một sự xếp đặt quan phòng, họ lại đánh mất nó hoàn toàn. Và cái tham vọng phạm thượng này biến thành nỗi hổ thẹn cho họ và dẫn họ đến diệt vong. Con người không được khinh chê những tặng phẩm từ trời, và chính trên trời mà họ phải đặt niềm tin tưởng của mình.
Cho nên vị thừa sai phải tỏ rõ giá trị, không phải bằng vẻ lộng lẫy khoa trương, nhưng bằng việc áp dụng khiêm tốn, không phải bằng sự tìm kiếm danh vọng nhưng bằng sự trốn chạy các phẩm tước, không phải bằng sự dồi dào của cải nhưng bằng tình yêu sự khó nghèo. Bởi vậy, ngài sẽ không bao giờ là khách quen của chốn cung đình. Đặt trường hợp mà ngài được vua chúa hoặc những nhân vật quan trọng của cung đình mời đến, hoặc ngài phải đến đó do cần thiết hoặc trong hy vọng sẽ làm cho họ trở lại đạo, thì ngài cư xử ở đó với sự khiêm tốn, đơn giản và mộc mạc là những phẩm tính thuần túy Kitô giáo; ở đó ngài sẽ tỏ ra không quan tâm đến mọi việc thế tục, để cho mọi người thấy rằng ngài chỉ mong chờ và tìm kiếm việc cứu rỗi các linh hồn, không màng đến mọi việc khác.
Không hề có ý định mưu đồ làm quan, làm đại sứ hoặc các chức vụ khác tương tự, ngài cũng sẽ từ chối chúng mà không do dự nếu người ta đề nghị, cũng như mọi chức vụ hào nhoáng vinh quang khác. Nếu thỉnh thoảng vua chúa tham khảo ý kiến ngài, thì chỉ sau nhiều lần khẩn khoản, ngài mới cho ý kiến, với tất cả chân thành và công bình, và không bao giờ quên ý tưởng về sự vĩnh hằng. Sau đó ngài sẽ vội vã rời cung điện hoặc triều đình. Hơn nữa, để có thể rút lui dễ dàng hơn, ngài sẽ làm cho người ta thấy rõ ngài hoàn toàn không có khả năng về chính trị và thực tế cũng không có khả năng về hành chính.
Ngài cũng nên nhớ rằng chúng ta bị Đức Giáo Hoàng cấm một cách nghiêm ngặt mọi thứ đó: không chỉ vì điều ấy có nguy hại chắc chắn đối với đạo hoặc vì mất thời gian cho các thừa sai, nhưng ngay cả vì ta kỳ vọng điều ấy có lợi cho đạo và đem lại tiến bộ rõ ràng về đức tin.
Ở đây chúng tôi không có ý định chê bai sự thông thái của người thợ Tin Mừng. Giáo Hội đã luôn đòi hỏi các sứ giả của mình phải có một học thức nghiêm túc. Nhưng chúng tôi muốn phân biệt những kiến thức phải đạt được và những kiến thức phải loại trừ. Thật ra có một học thuyết thánh thiện và thiêng liêng, do Thiên Chúa ban tặng qua mạc khải, được các nhà truyền giáo, nhân danh Chúa Kitô truyền lại đầy đủ cho người ta. Nhưng cũng có một môn khoa học nhân văn và ngụy biện, thiếu nền tảng vững chắc của đức tin. Đó chính là khoa học mà những nhà khôn ngoan của thế gian rao giảng với những lời nói lắt léo, trí trá của con người. Chính về những người đó mà đã được viết: “Ta sẽ hủy diệt sự khôn ngoan của hạng khôn ngoan, và Ta sẽ triệt tiêu trí thông thái của hạng người thông thái.” (1 Cr 1,19). Rõ ràng là những hạng người thiếu lòng tin này đã không được trải nghiệm rằng việc trở lại không phải là kết quả của người trồng, cũng không phải của người tưới, nhưng chỉ là kết quả của lòng nhân từ Thiên Chúa đã thay đổi trái tim con người. Trong khi gạt qua một bên điều có vẻ quá đơn giản và không đáng kể trong đạo hay quá tán dương sự vĩ đại và cao cả của chính đạo này, họ đã theo kiểu cách của những kẻ ngụy biện, tự phụ cho mình đã khắc sâu vào trí não đức tin mà chỉ mình Thiên Chúa mới có thể ban phát. Sự khôn ngoan này là khôn ngoan của những tông đồ giả mà thánh Antonin đã nói: “Để không tỏ ra là điên khùng trước mặt những người khôn ngoan của thế gian, họ đã rao giảng Chúa Kitô theo sự khôn ngoan của thế gian, bằng cách tránh mọi thứ mà thế gian cho là điên rồ nơi chúng ta. Thế nên họ đã không rao giảng Con Thiên Chúa xuống thế làm người và sinh bởi một Trinh Nữ. Họ đã không dạy việc cứu chuộc con người bằng cái chết của Người, cũng không dạy sự sống lại sau này của xác thịt chúng ta, những cái đó được coi là điên rồ trước sự khôn ngoan thế gian” (In I ad Cor., c. I, lect. 3).
Đó là giáo lý, là cách rao giảng Tin Mừng mà các nhà thừa sai phải gạt bỏ cùng với thánh Phaolô. Cũng cùng với ngài, vị thừa sai phải kiên quyết dạy dỗ về Thập Giá và rao giảng sự điên rồ này, mà qua đó Thiên Chúa đã đoái thương cứu rỗi những kẻ tin. Ước gì ngài trả lại cho những kẻ khôn ngoan của thế gian cái khôn ngoan của họ, và mong rằng, cùng với các Tông đồ, ngài rao giảng: “Một vị Kitô bị đóng đinh Thập Giá, cớ vấp phạm cho Do Thái, sự điên rồ đối với dân ngoại, nhưng đối với những ai được kêu gọi dù là Do Thái hay Hi Lạp, thì lại là chính Đức Kitô, quyền năng của Thiên Chúa và sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1 Cr 1,23- 24). Tuy nhiên, suy nghĩ thận trọng phải giúp ta phân biệt: xử sự theo sự khôn ngoan loài người là một chuyện; còn vay mượn những phương cách của sự khôn ngoan con người để rao giảng là một chuyện khác.
Sự thật này gắn với giáo lý của vị Tiến Sĩ Thiên Thần, Thánh Tô-ma: dạy dỗ theo sự khôn ngoan loài người, chính là chỉ lấy nó làm điểm tựa và dùng nó mà không kể đến bất cứ phương cách nào khác, chính là loại bỏ bất cứ cái gì không hợp với sở thích thế gian. Một sự cư xử như thế làm hỏng sự toàn vẹn của đức tin và làm trở nên vô ích, trong con mắt người đời, Thập giá của Chúa Kitô. Nhưng người nào trong khi dạy dỗ biết sử dụng những phương cách của sự khôn ngoan con người, mà vẫn lấy đức tin làm nền tảng thì không do dự sử dụng để giúp cho đức tin, những luận cứ mà họ có thể tìm thấy trong học thuyết của các triết gia. Đó là một đóng góp tốt đẹp, để bác lại những sai lầm đối nghịch với đức tin, bởi vì, cũng theo vị Tiến sĩ Thần học trên, để bác bỏ những sai lầm này, thì cần dùng những lý lẽ vững chắc nhất và thích hợp nhất để thuyết phục đối thủ (In I ad Cor., c.I, lect. 3).
Vị thừa sai, xác tín việc rao giảng của mình có sức mạnh vững chắc trong sức hiệu lực của Thập tự, sẽ không xấu hổ khi rao giảng bằng lời nói và hành động, về Đức Giêsu Kitô bị đóng đinh Thập giá. Khi ngài phải chuẩn bị dự tòng chịu phép rửa tội, ngài sẽ không bao giờ giấu giếm họ cuộc tử nạn của Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ngay cả khi sợ họ còn yếu đuối, hoặc vì cớ vấp phạm mà họ có thể gặp trong những giáo huấn của ngài, ngài chỉ phải nhắm một mục đích: đào tạo con người khiêm tốn và ngoan ngùy, không quan tâm đào tạo những học sĩ và những nhà thông thái. Cho nên, trước tiên ngài phải lấy giáo lý làm cơ sở cho đức tin, làm đối tượng của lời mình rao giảng và buộc người ta tán đồng hoàn toàn. Một sự rao giảng như thế đem lại vinh danh cho Thiên Chúa và cho những người rao giảng về lợi ích cũng như công trạng. Ngài chớ nên chứng minh những mầu nhiệm thâm sâu của đức tin bằng lý lẽ. Nhưng nếu lý trí hay khoa học cung cấp cho ngài lý lẽ nào đó vừa tầm những người đang nghe ngài, thì ngài sẽ sử dụng, nhưng phải lưu ý họ rằng những mầu nhiệm được mạc khải từ trời đòi hỏi một sự vâng phục khiêm tốn và kính cẩn, và rằng trí thông minh luôn phục vụ đức tin.
Có những phương tiện loài người khác có tính chất ít đáng chê trách hơn những điều mà chúng ta vừa báo động. Tuy nhiên, việc sử dụng không thận trọng và ít chính đáng mà các thừa sai đã làm, thường đã làm hư đại sự và đến lượt mình, các ngài cảm thấy hậu quả thảm hại do sự phản lại của những phương tiện ấy. Và vết nhơ ám ảnh mãi. Vả lại, không có quyển sách nào dạy chúng ta rằng Chúa Kitô và các Tông Đồ đã từng dùng những phương tiện đó. Cho nên chúng ta có bổn phận cũng phải loại bỏ chúng hoàn toàn, hoặc ít ra cũng chỉ sử dụng với sự thận trọng.
Như khoa thiên văn và khoa toán, hội họa, những kỹ thuật cơ khí và những cái khác, tất cả đối với vị thừa sai, đều là gánh nặng, cản trở hơn là trợ giúp thật sự. Toàn bộ thời gian mà ngài dành cho chúng thì được trích ra từ thời giờ cầu nguyện và của những nhiệm vụ truyền giáo khác. Hơn nữa, chúng lôi cuốn về phía vị thừa sai sự kính trọng và danh tiếng bao phủ quanh ngài, như tựa một làn khói vinh quang vụn vặt, vô tích sự; làm trò vui cho trí tò mò của thính giả, và bằng cách làm cho họ chú ý vào đó, thì ngài làm họ sao nhãng những điều liên quan đến sự cứu rỗi.
Đôi khi cũng xảy ra cho các vị thừa sai, trong khi muốn tỏ ra thành thạo và thông hiểu những môn đời, cốt để tạo tin tưởng và uy tín cho những bài giảng, thì các ngài lại nhận được các tác dụng ngược lại; người ta thấy các ngài quá tinh quái, cho nên họ dè chừng, không tin tưởng các ngài nữa.
Thẳng thắn mà nói, loay hoay với những phương tiện khác thường này, cho ta thấy công việc của một tâm trí bất ổn và làm nổi rõ tham vọng lo lắng cho vinh quang của chính mình hơn là vinh quang mà ta phải tìm kiếm cho Thiên Chúa bằng việc cứu rỗi các linh hồn. Còn nữa, nếu mục đích này ít bị sao nhãng thì ta đã không tận dụng sự dạy dỗ nhận được từ trường học của Chúa Kitô, và ta biến vinh quang này thành một vấn đề sở thích cá nhân thay vì đặt nó trong kế hoạch, ý muốn của Thiên Chúa. Đó chính là tìm kiếm chỗ dựa mong manh vào những sự trợ giúp bên ngoài, trong khi chỉ phải trông cậy nhờ vào cầu nguyện, nước mắt, thở than, hy sinh, kiên nhẫn và nhẫn nhục.
Giả định rằng vị thừa sai bị tước đi mọi thứ phương tiện loài người, ngài sẽ không được tìm kiếm chúng, và khi ngài cảm thấy có khuynh hướng muốn trông chờ vào chúng, thì ngài nên gạt ngay cả ý tưởng về chúng ra khỏi đầu mình ! Mong rằng nếu ngài có sử dụng một vài phương tiện nào đó, thì ngài hãy lưu ý đừng quá quan tâm đến chúng, đừng để mất thì giờ với chúng và chớ hay năng nói về chúng bất cứ lúc nào. Và ngay cả khi việc sử dụng chúng đôi khi có vẻ đem lại lợi ích nào đó, thì ngài vẫn phải dè chừng e phải chịu thua sự kích thích từ sự ngứa ngáy, thèm muốn, rất tự nhiên và hay đánh lừa đó, thay vì để mình được hướng dẫn bằng tác động của ân sủng.
Cơn cám dỗ khó chịu nhất đối với nhà truyền giáo đương nhiên gần với tình huống sau đây: ngài thiếu những phương tiện thuần túy nhân loại đã được liệt kê ở trên, hoặc là chúng ở trong tầm tay ngài; nhưng dường như một thần cảm từ Chúa, hay Thiên Ý nào đó cấm ngài hoàn toàn không được sử dụng. Ngài kéo lê cuộc sống khốn khổ, thường túng thiếu ngay cả cho những nhu cầu cần thiết nhất; chấp nhận ngàn muôn nghịch cảnh: mọi người khinh rẻ, rồi đủ loại đau khổ từ bên trong lẫn bên ngoài; và điều còn làm cho ngài lo sợ hơn nữa, đó là không gặp thành công nào trong công việc truyền bá Tin Mừng của ngài. Không kết quả tích cực nào từ những nỗ lực của ngài, thế mà dưới mắt ngài, những nhà truyền giáo đồng nghiệp khác, nhờ sử dụng những phương tiện trên, lại đang sống trong sung túc và thịnh vượng, chỉ nghe những lời tán dương của mọi người về một vụ mùa dồi dào... Đó chắc chắn là một viên đávấp ngã mà một số rất lớn sẽ vấp phải, một tảng đá hiểm trở nhô trên vực sâu: bàn chân vững chắc nhất sẽ không trụ được ở đó nếu không có phép lạ phi thường của ân sủng. Nhưng đúng hơn, chúng ta nên nói đó chính là thứ đá thử vàng để làm lộ ra nhân đức của vị thừa sai, hay còn gọi là lò nung đốt để các chất liệu của ngài được rũ bỏ đất đá bao quanh, và đạt đến độ tinh khiết nhất. Trong lúc đó, thật ra bề ngoài có vẻ thất bại, nhưng có nhiều người khi xem xét tình thế của ngài, lại cho là rất hạnh phúc và đáng mơ ước: ngài cảm thấy trong chính mình sự toàn thắng của ân sủng, con người cũ đã bị chôn vùi và nay con người mới được phục sinh, hoàn toàn trơ trụi để phó thác cho Chúa. Một loại rung cảm nào đó đưa ngài thoát khỏi chính mình và làm ngài sống chỉ cho Thiên Chúa và vinh quanh của Người mà thôi. Ngài có ý thức mình đang thực hành những nhân đức lớn và anh hùng, cho dù vẫn thấy đời mình tuyệt đối trống rỗng, không được việc gì và hoàn toàn vô dụng, và những tiếng rên xiết kêu ca của ngài chỉ là vô bổ. Chắc chắn ngài rất giống với Chúa Kitô là Thầy Chí Thánh của mình, Đấng đã trở thành sự cười nhạo của đám đông và chắc chắn ngài đóng góp nhiều hơn nữa vào việc cứu rỗi các linh hồn, mặc dù kết quả của công lao khó nhọc của ngài vẫn còn ẩn giấu. Chắc chắn hạnh phúc và ngàn lần hạnh phúc cho ai chỉ nghĩ đến tìm kiếm vinh quang Thiên Chúa và việc cứu rỗi các linh hồn, chỉ sống dù không ai biết đến, và quên cả chính mình, để làm vừa lòng Thiên Chúa mà không tự mãn trong lòng. Đẹp thay khi nhìn kỹ vị tông đồ dân ngoại được tôi luyện bằng chính những thử thách loại này. Khinh chê những mưu mẹo loài người, Phaolô đã đến loan báo Tin Mừng ở Côrintô. Trong khi những người khác, hoàn toàn tự tin, đã đưa ra một phương pháp mới để rao giảng Chúa Kitô, đã tìm cách nắm bắt mọi đặc ân và tự cho mình là thầy, còn ngài trái lại, đã làm cho mình nhỏ bé đi trong con mắt dân chúng, đến mức tự xem mình như là rác rến của thế gian và phế vật đối với hết mọi người (1 Cr 4,13).
Rồi ngài đã làm gì? Ngài đi vào thánh điện của Thiên Chúa, suy gẫm về những dự định muôn đời của Người, thú nhận những thử thách và những khốn cùng đã gặp phải này, để xác tín rằng mọi điều sỉ nhục chỉ là dấu hiệu và triều thiên của người tông đồ đích thực và đem lại vinh quang riêng cho chính tông đồ. Khi đó, ngước mắt nhìn lên Đấng vốn là tác giả của đức tin và là người đòi buộc mọi người phải có lòng tin, là Đức Giêsu Kitô, vị Thầy chí ái của mình, ngài chúc lành những kẻ đã thoá mạ ngài; bị bắt bớ, ngài đành chịu đựng nhẫn nhục; bị bêu nhuốc ngài ra lời cầu khẩn (1 Cr 4,12 & tt).
Phaolô biết để học nơi Thầy của mình, bằng sự kiên nhẫn, sự ruồng bỏ và cái chết tủi nhục của thập giá mà Giáo Hội đã được tạo dựng, nên vị thừa sai Dân ngoại không trông chờ vào khôn ngoan loài người, cũng không màng với những mưu mẹo mà những tông đồ giả sử dụng để thu hút về phía mình lòng tốt của dân chúng; nhưng luôn luôn kiên vững và bình thản, ngài không thay đổi cách sống cũng như phương pháp rao giảng của mình. Lòng nhân từ của ngài đối với những người thành Côrintô không có biến đổi, vẫn trước sau như một, vẫn ân cần giảng dạy họ, vẫn cho họ những lời cảnh báo ngay cả khi ít hi vọng có kết qủa. Ngài không nề hà đối với họ bất cứ sự giúp đỡ nào, và trung tín hoàn thành bổn phận của ngài đến cùng bằng việc gia tăng thêm lời cầu nguyện và khẩn khoản nài xin Thiên Chúa.
Mỗi người đều hiểu việc rao giảng là phần chính yếu của trách nhiệm tông đồ, vị thừa sai phải tập trung công sức tinh thần của mình với hết nhiệt tình. Trong mục đích này Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta đã chọn các Tông đồ “để Người sai đi rao giảng” như thánh Marcô miêu tả (3,14). Các Tông đồ luôn luôn tự cho mình mang trách nhiệm phải bó buộc từ bỏ và xa lánh mọi thứ không mấy phù hợp với chức trách này. Các ngài nói: “không phải là điều đẹp lòng Thiên Chúa, nếu chúng tôi sao nhãng Lời Chúa mà đi lo giúp việc bàn ăn” (Cv 6,2). Và thánh Phaolô xác định: “Quả vậy, Đức Kitô đã không sai tôi đi thanh tẩy, mà là rao giảng Tin Mừng” (1 Cr 1,17). Những lời mà thánh Phaolô dặn dò Timôtê về sứ vụ rao giảng, chắc chắn đáng ta lưu ý “trước mặt Thiên Chúa và Đức Kitô Giêsu, Đấng phán xét kẻ sống và kẻ chết, vì cuộc hiển linh và vương quyền của ngài, cha khẩn thiết yêu cầu con hãy rao giảng Lời, hãy ứng phó lúc thuận, cũng như lúc nghịch...v.v.” (2 Tm 4,1-2)
Nhưng thực ra, nếu lối cư xử không đi đôi với lời nói, người rao giảng sẽ thu hoạch được ít, nếu không nói là không được gì. Do vậy thánh Phaolô tông đồ đã viết cách khôn ngoan cho Titô “trong mọi sự, anh hãy tỏ mình gương mẫu về đức hạnh” (Tt 2,7). Như thánh Luca nhận xét, chính Chúa Kitô “đã bắt đầu bằng hành động và bằng dạy dỗ” (Cv 1,1). Người muốn qua đó cho chúng ta, cũng như các Tông đồ, nhận thức việc rao giảng phải luôn luôn đi đôi với một lối cư xử gương mẫu. Đức tính làm gương thì thánh Gioan Kim khẩu có vẻ gán cho việc trở lại đạo của thế giới do từ mười hai Tông đồ mà có. “Do đâu, thánh nhân tự hỏi, các ngài trở nên vĩ đại dưới con mắt mọi người? Thưa từ sự khinh chê vinh hoa phú quí, từ sự xa lánh hoàn toàn mọi việc thế tục. Không có những cẩn trọng này, dường như các ngài cũng đã có thể làm cho kẻ chết sống lại, nhưng các ngài có lẽ đã không phục vụ được ai, nếu như thế, người ta đã chỉ xem các ngài như nhũng ke quyến rũ, không hơn không kém”. (Hom. 46 in Matth.)
Phẩm hạnh đời sống sẽ giúp các vị thừa sai có nhiều uy tín nơi các dân tộc hơn là những phép lạ. Ông Gioan Tẩy giả đã không làm một dấu lạ nào (Ga 10,41), tuy nhiên cuộc sống thánh thiện không chê vào đâu được cho ngài đủ uy quyền, cho phép ngài quở trách chính các giáo sĩ, các ký lục và cả hàng vua chúa nữa; hơn nữa, bạo chúa Hêrôđê “biết ông là người công chính và lành thánh, thường hành động sau khi hỏi ý kiến ngài” (Mc 6,20). Rõ ràng để làm rung động con tim và làm cho người ta trở lại, gương lành cuộc sống thánh thiện có nhiều ảnh hưởng hơn là chính việc rao giảng, bởi ta thuyết phục bằng hành động dễ dàng hơn là bằng lời nói suông. Gương sáng làm cho con đường nhân đức trở nên dễ đi và mau mắn; còn ngược lại thì có vẻ khó nhọc và lâu dài. Chính đó là bằng chứng tốt nhất chứng tỏ đạo của chúng ta không đến nỗi khó quá và gay go đến thế; từ đó nhờ sức mạnh thần thiêng, người ta dễ thiện cảm và đến chỗ yêu mến đạo. Về phía lương dân, sức mạnh này làm cho các vị thừa sai được kính trọng và tán dương, khiến họ thích thú đến gặp và nghe các ngài, rồi quyến luyến ưa chuộng cộng đoàn các ngài ở, họ sẽ quyết định nghe theo lời khuyên và ý kiến của các ngài.
Thêm vào cuộc sống gương mẫu, phần bổ sung thứ hai của việc rao giảng là sự tận tụy đậm đà tình phụ tử, sẽ mở toang con đường dẫn đến việc chinh phục các tâm hồn. Bởi vì không gì hơn sự tận tâm để nối kết những mối dây thiện cảm, rồi từ nghe họ đi đến chỗ hãm dẹp những thói xấu và sẽ miệt mài trên con đường nhân đức. Thánh Phaolô tông đồ cũng đã rất có lý nhắn nhủ chúng ta đừng bao giờ quên làm điều thiện (Dt 13,16). Việc này, Chúa Kitô đã thi hành trước nhất “Ngài đã ngang qua thi ân giáng phúc và chữa lành mọi kẻ bị quỉ ma áp bức thống trị” (Cv 10,38). Ngài có vẻ đã răn dạy điều đó cho các Tông đồ: “Hãy đi, và loan báo rằng Nước Trời đã đến gần. Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh, và khử trừ ma quỉ. Anh em đã được cho nhưng không, thì cũng phải cho không như vậy” (Mt 10,7-8). Vả lại vị Tông đồ dân ngoại, vốn là mẫu mực cho mọi người, bằng gương sáng, ngài khuyến dụ nhà truyền giáo phải ra sức áp dụng nhân đức này. Sau đây là điều mà thánh Gioan Kim khẩu đã diễn tả: “thánh Phaolô đã cho thấy nhiều bằng chứng về sự ân cần tận tụy và sự tiên liệu của ngài, khi nâng đỡ không chỉ tâm hồn mà còn cả thân xác nữa. Dưới mắt ngài, điều duy nhất đáng xấu hổ là đã bỏ qua hành vi nào đó có thể đóng góp vào việc cứu rỗi đồng loại. Chính hướng về mục tiêu này mà mọi hành động của ngài đều nhằm tới và không chút do dự, cũng không tiết kiệm lời nói, tiền bạc, cùng chính con người ngài, đối với những kẻ ngài phải cứu giúp. Chính như ngài nói, ‘tôi sẽ sẵn lòng cất công và sẽ không ngừng ra sức vì linh hồn anh em.’” (Hom. 3, de laud. Pauli).
Lương dân, dự tòng, tân tòng, ước gì tất cả mọi người kể trên cảm nhận được vị thừa sai như người cha và trạng sư của họ. Ước gì ngài can thiệp cho họ trong những trường hợp rất cần thiết và khẩn cấp, với vua quan hay nơi toà án. Ước gì ngài chi cấp cho sự bần cùng của họ, dù ngài có phải đi ăn mày. Ngài chớ đích thân chỉ định những người đại diện dân chúng hay gây khó dễ. Ước gì ngài là một người cha biết lo xa cho con cái của ngài, cho dù có thể không được đáp trả bằng một tình yêu tương xứng. Ước gì ngài không mong chờ sự đáp trả điều mình đã cho, mà chỉ kỳ vọng vào hiệu quả tốt đẹp từ lòng rộng rãi của ngài.
Dù vậy ngài hãy canh chừng đừng để bị tình cảm dẫn dắt đến mức biến mình thành người cung cấp những của cải nhất thời cho con chiên của mình, ngoại trừ trường hợp rất cần thiết.
Vậy nên, người thừa sai sẽ tận tụy hoàn toàn cho sứ vụ rao giảng, nơi riêng tư hoặc nơi công cộng, cho người nghèo cũng như người giàu, cho giới chủ cũng như tớ, cho mọi người, ngài sẽ bẻ và phân phát Bánh thánh thiêng của Tin Mừng. Ngài sẽ rảo qua những con đường, thăm viếng dân chúng, làm lan toả khắp chốn hương thơm dịu ngọt của sự nhận biết Thiên Chúa; mời gọi, thúc bách mọi người đến dự tiệc cưới của vị Hôn Phu trên trời.
Ngài cũng cẩn thận đừng để lối cư xử lẫn lời nói của mình làm giảm lòng tin nơi họ. Tốt hơn chính sự thánh thiện nơi cuộc sống xác nhận cho việc rao giảng của ngài. Thánh Jérôme nói: “Tại sao bất cứ ai trong thâm tâm đều có thể bắt bẻ việc rao giảng của cha. Vậy tại sao lối cư xử của cha không tương xứng với những lời cha nói?” (Epist. 2 ad Nepot.), hoặc còn trường hợp lương dân có thể cho rằng điều luật này không thể tuân giữ được, bởi anh ta thấy chính vị thuyết giảng không tuân giữ nó.
Ước gì lòng kính Chúa yêu người biết chuyên chăm làm việc thiện luôn đi kèm theo việc rao giảng của ngài hầu dễ được chấp nhận hơn. Tuy nhiên ngài cũng giữ chừng mực nào đó để không trở thành nhà cấp dưỡng cho người ngoại giáo, vốn kỳ vọng hưởng được những ân huệ của ngài, những lợi lộc vật chất trong khi theo đạo. Người ta không được tìm kiếm Chúa Giêsu để được no đủ, như người Do Thái xưa kia, đã lo lắng quá cho phần xác thịt mà quên đi lãnh vực tinh thần.
“Lời Thiên Chúa là Hạt giống” (Lc 8,11); vị thừa sai phải chuẩn bị Lời cẩn thận trước khi giao Lời cho trí khôn của những người đang nghe ngài. Bởi vì Thiên Chúa đã muốn việc cứu rỗi các dân tộc phụ thuộc vào việc rao giảng của các vị thừa sai, nên Người cũng mong muốn các ngài tỏ ra tích cực trong sứ vụ, không được quá nhàn rỗi và lười biếng. Tuy nhiên, không phải nghệ thuật ăn nói dạy cho vị thừa sai soạn và chuẩn bị bài giảng của mình, chính nhờ nguyện gẫm nhiều hơn. Khởi đầu, ngài phải nghiêm túc biết phối hợp và chuẩn bị những đề tài mà ngài sẽ nói chuyện với dân chúng; sau đó ngài sẽ chú tâm suy niệm chúng trước mặt Chúa và chính mình gắng thưởng thức, nghiền ngẫm những đề tài ấy trước tiên để nắm bắt hết tầm ảnh hưởng quan trọng. Như vậy, việc rao giảng sẽ không phải là một sự tuôn ra khô khan theo trí nhớ, mà là kết quả của những suy niệm mãnh liệt; ngài sẽ để vào đấy cả bầu nhiệt huyết tâm hồn ngài. Và khi ấy như dòng sữa tươi bổ dưỡng, sự sùng kính sẽ chảy ra từ môi miệng ngài dồi dào những ân sủng trên trời; hoặc lời ngài sẽ như một tia lửa của Tình Yêu Thiên Chúa, đang bắn ra từ miệng ngài và đang nung đốt con tim của những người đang nghe ngài. Tình cảm và lời nói, ngài sẽ kín múc từ kinh nguyện, nhờ ơn Chúa; và giao phó sự thành công cho công việc ngài. Những nỗ lực của ngài rất có thể là một bài trình bày những mầu nhiệm đức tin, có sức quyến rũ đầu óc và làm say mê những người đang nghe ngài bằng sự thán phục, nhưng duy chỉ một mình Thiên Chúa có thể làm cho các tâm hồn trở lại, làm con tim nhiệt tình ăn năn hối lỗi, có thể nhổ tận gốc những thói hư tật xấu và ghi khắc sâu đậm tâm tình khiêm tốn, lòng bác ái và tình yêu mọi nhân đức khác. Ngài sẽ cố gắng trước hết nói thứ ngôn ngữ vừa tầm mọi người. Ngài sẽ bỏ đi điều vượt quá trí khôn của những người bình thường mà kết quả duy nhất chỉ là làm lóa mắt họ. Sau cùng, để dùng lời của thánh Công đồng Trente “Ước gì ngài nuôi dưỡng bằng lời cứu rỗi những dân tộc được giao phó cho ngài, bằng cách giảng dạy mọi người điều cần thiết cho việc cứu rỗi và dạy điều ấy trong một ngôn ngữ dễ hiểu và ngắn gọn, bằng cách thu hút sự chú ý của họ về những thói hư tật xấu phải tránh và những nhân đức phải thi hành để khỏi sa hoả ngục và đón nhận vinh quang thiên quốc” (Sess. 4, c.2, de Reform.). Ngài sẽ nhìn kỹ trong những trang sách Tin Mừng thánh thiêng quang cảnh không thể sánh ví của Chúa Cứu Thế đang rao giảng cho nhân loại. Trong Người chứa đựng tất cả mọi kho tàng khôn ngoan và sự thông hiểu Thiên Chúa. Với lòng nhân từ và dịu ngọt độc đáo, Người đã hạ mình đến mức ngang bằng với đám dân đen dốt nát, đã dùng những dụ ngôn và những so sánh bình dân quen thuộc nhất để giảng giải những mầu nhiệm Nước Trời và để cổ vũ những người tội lỗi thống hối ăn năn. Để kết thúc và kết luận ngắn gọn bằng lời khuyên tuyệt hảo của thánh Grégoire, “ngài sẽ cân nhắc lời mình, nắm bắt vững điều mình sẽ nói, sẽ nói với ai, phải nói điều gì đó với ai, phải diễn tả thế nào và phải nói bao lâu. Ngoan ngoãn vâng theo lời khuyên của thánh tông đồ Phaolô, ngài sẽ ấp ủ chính đề tài của mình để lời nói luôn được nêm nếm tốt bằng muối ân sủng, ngài phải biết rõ cử tọa của mình. Bởi vì thường thì với một câu nói, người này chấp nhận, người khác lại không chấp nhận; vậy ngài sẽ phải biết dùng lời nói đúng chỗ đúng lúc, bởi thường một lời nói có thể được đón nhận nhờ dời lại, hoặc đôi khi mất hoàn toàn hiệu lực bởi đã bỏ lỡ dịp thuận lợi. Lối sắp xếp từ ngữ không phải không quan trọng, bởi vì cũng cùng những từ đó sẽ cho người này sự nhiệt thành với những điều của việc cứu rỗi, nhưng có thể sẽ làm tổn hại người khác. Sự chừng mực cũng phải được dè giữ, vì e rằng sẽ làm quá tải những người yếu kém, gây buồn chán do độ dài thời gian phải nghe, nhất là khi phải chịu đựng những lời la mắng hoặc quở trách” (Hom. II. In Ezech.)
Thiên nhiên hình như phú cho con người cảm thức về tôn giáo và có một chút hiểu biết nào đó về Thiên Chúa. Tuy nhiên tất cả đều không có ý tưởng như nhau về tôn giáo. Chúng ta đồng thuận về điều sau, hầu như không có người nào mà không chấp nhận nguyên tắc tối thượng của mọi sự. Nhưng cũng có những người tưởng tượng không có gì phải sợ một vị Thiên Chúa, vốn nhân từ tự bản chất và hoàn toàn không làm hại ai, vậy sẽ luống công vô ích mà thôi khi phải tranh thủ với Người sự giao hảo thân thiện bằng những hy sinh và cầu nguyện, có chăng là chỉ phải làm dịu đi ma quỉ vốn có trái tim đầy thù hận và chỉ nghĩ đến việc làm hại người ta. Những người khác, cùng với những người theo chủ nghĩa khoái lạc cho rằng Thiên Chúa không quan tâm đến những điều của trần gian và do đó từ chối một sự tôn thờ đối với Người mà, họ còn thêm, Người không cần tí nào, bởi sự hoàn hảo tột bậc đã đủ cho chính Người rồi. Còn loại người sau cùng sống hoàn toàn trong sự lãng quên Thiên Chúa và trong sự hổ thẹn tột bậc là làm nô lệ cho sự thờ phượng ngẫu tượng.
Nếu những nền móng chính yếu của Đạo, như chúng tôi sắp đưa ra, được vị thừa sai trình bày đúng đắn và đầy đủ cho dân ngoại, thì chúng sẽ xua tan ngay lập tức những bóng tối dày đặc của những lầm lạc này và chắc chắn người có lương tri sẽ được thuyết phục về sự cần thiết của Đạo thật. Bởi vì Đạo thật tự bản chất có một đức tính mà chỉ cần trí tuệ nắm vững là đủ để hiểu những quyền chính đáng mà Thiên Chúa đòi hỏi chúng ta phải tôn kính Ngừơi và con người được thúc đẩy cách tự nhiên để thực hiện nghĩa vụ đó, và vì mục đích ấy, ơn Chúa không bao giờ thiếu.
Vậy sau đây là những điều vị thừa sai cần chú ý đến:
1. Trước hết chứng minh chỉ có một Thiên Chúa mà thôi vốn đầy lòng khoan dung, và với tư cách là cha, Người chu cấp những nhu cầu của chúng ta, Người quan tâm với tình yêu phụ tử đến những quyền lợi của nhân loại, Người điều khiển chúng trong sự khôn ngoan vô tận của Người “Quí vị hãy đặt giả thiết, thánh Augustin nói, giả định một chốc lát thôi là sự quan phòng của Thiên Chúa không còn chủ trì những biến cố của nhân loại nữa, và quí vị sẽ không phải quan tâm đến tôn giáo nữa, liệu có được không?” (Lib. de utilit. Credendi.)
2. Chứng minh linh hồn chúng ta thì bất tử, nhằm để tránh nếu không xác tín về chân lý này, ta sẽ không thể nói như kẻ mà sách Giảng Viên đề cập: “Số phận của kẻ dại làm sao, thì số phận của tôi cũng như vậy. Vậy tôi khôn cho lắm để làm gì?” (Gv 2,15).
3. Xác lập rằng hạnh phúc không phải ở đời này, nhưng thuộc về đời sau và rằng Đạo Thật dạy ta phương cách để đạt tới hạnh phúc.
4. Chỉ ra hạnh phúc này không lệ thuộc vào những nỗ lực của chúng ta, cũng không vào sự trợ giúp của bất cứ loài thụ tạo nào khác, mà chỉ có sự cứu giúp của Thiên Chúa mới có thể ban cho. Thánh Augustin nói: “Chính Thiên Chúa mà thôi, ban cho chúng ta hạnh phúc đó, và chỉ một mình Đấng đã tạo nên con người mới có thể làm cho đương sự hạnh phúc” (Epist. 52).
5. Cuối cùng cho thấy con người, với sự trợ giúp của Thiên Chúa, phải làm mọi cách để hướng về hạnh phúc thật. Bởi vì, nếu không đòi buộc một cố gắng nào về phía chúng ta, thì có lẽ chúng ta sẽ không cần phải chăm lo đến Đạo vốn đã vạch ra những phương cách phải dùng để đạt được hạnh phúc ấy.
Ngay khi tinh thần xác tín về những chân lý trên, thì lập tức, trừ trường hợp con tim đã trở nên chai đá do tội lỗi, nó sẽ bắt đầu đánh giá cao về Thiên Chúa và cảm thấy trìu mến đối với Người. Kết quả, nhờ ơn Chúa giúp đỡ, con người sẽ cắt đứt mọi quyến luyến với những của cải nhất thời và chóng hư nát để chỉ còn khao khát những của cải vĩnh cửu và vô hình. Chẳng bao lâu sau, mạnh mẽ nhờ lòng nhân từ của Thiên Chúa, dựa cậy vào niềm hy vọng và lòng tin không lay chuyển, con ngừơi sẽ tôn vinh Thiên Chúa như người cha của mình, đầy ân cần, rồi con người sẽ đáp lại bằng tình yêu, sẽ phục tùng lệnh Người và ngạc nhiên nhận ra mình đã được biến đổi, đương sự sẽ không thể nén được niềm vui và cất cao lời tán dương lòng nhân từ vô biên, sẽ tuôn ra những hành vi cảm tạ, sẽ cảm thấy ray rứt về cuộc sống đã qua, sẽ cầu xin ơn tha thứ trong nước mắt, và sẽ quì gối xuống trước Đấng Tạo Hoá tối cao để dâng chính mình làm của lễ toàn thiêu.
Vô ích khi muốn chứng minh rộng hơn những chân lý nền tảng trên, bởi ta đã gặp chúng trong mọi sách giáo lý, đặc biệt trong những sách về Đạo Thật, như Dẫn nhập vào Biểu tín của Louis de Grenade và Chiến thắng của Thập giá của Savonarole.
Nhưng phải lưu ý khi giới thiệu những điểm căn bản trên, ít dùng những lý chứng tế nhị, mà nên dùng những lý luận được rút ra từ ý thức chung của con người và được hỗ trợ bằng những ví dụ thông thường. Đương sự phải được thuyết phục rằng ở trường học đạo, chính Thiên Chúa, nguồn ánh sáng bên trong, mới làm cho trí khôn hiểu và nắm bắt được chân lý.
Khi trình bày như trên với lương dân, ngài sẽ tránh có vẻ mang đến cho họ sự giảng dạy hoàn toàn mới mẻ, nhưng sẽ cẩn thận đối xử với họ như là họ đã có nắm bắt chút ít về những chân lý này rồi. Ngài sẽ nhấn mạnh những vẻ đẹp hàm chứa trong những chân lý, làm cho họ nhớ nằm lòng với tất cả niềm vui sướng khi được nhìn ngắm chúng, thấy chúng mạnh mẽ dường nào để nâng đỡ họ và điều chỉnh lối cư xử của họ. Như thế ngài sẽ dẫn họ từ từ đi đến chỗ gắn kết với những chân lý trên, để sau cùng chúng tạo nên một dấu ấn sâu đậm hơn trong tâm hồn họ, còn nếu hành động ngược lại, ngài sẽ ném họ lún sâu vào mối nghi ngờ thôi.
Ngài sẽ không tự đề xuất những thắc mắc, ý kiến bắt bẻ để nhằm lý giải suông, có chăng là ngài nên thu thập vài cái có vẻ nực cười nhất, những cái mà những người chưa tin thường nói ra nhất, những cái mà chỉ riêng việc phát biểu đã là một điểm xấu, vết nhơ cho chủ đích của đối thủ rồi. Nói cách khác, với các ý kiến bắt bẻ, ngài dễ có nguy cơ gây nên những bối rối vô ích cho những con người yếu đuối và mộc mạc, khi khơi gợi lên cho họ những khó khăn này, y như những chỗ lồi lõm vô duyên trên con đường rất bằng phẳng và rất dễ dàng của Tin Mừng.
Mục tiêu của vị thừa sai khi nói chuyện lần đầu tiên với kẻ chưa tin, là chứng minh sự cần thiết đạo phải hiện hữu, và sự khẩn thiết phải đào tạo những môn đồ trung thành và đạo đức. Cho nên trong những nhắn nhủ của ngài, điều chính mà ngài sẽ luôn luôn nhấn mạnh, liên quan đến sự quan phòng phụ tử của Thiên Chúa, sự khôn ngoan của Người, quyền năng, sự thánh thiện, tính trung thực, lòng nhân từ, sự công chính và lòng thương xót của Người. Tóm lại là tất cả mọi thuộc tính của Thiên Chúa có khả năng sản sinh trong họ đức tin, niềm hy vọng, sự kính sợ, lòng tôn kính và đức bác ái. Chính đó cũng là bấy nhiêu tình cảm tốt, là cội nguồn, là lương thực nuôi dưỡng để Đạo tồn tại.
Không gì để sinh ra tình yêu hỗ tương giữa con người với nhau bằng một việc lành tự phát, nó kêu mời sự trìu mến và ao ước người khác được yêu thương hơn chính mình, được điều lợi hơn mình; nó chỉ muốn được yêu thương để có thể chia sẻ tất cả với những người yêu thương mình. Nào có gì thúc đẩy chúng ta mạnh mẽ và hiệu lực hơn đến với tình yêu Thiên Chúa bằng lý do này: Thiên Chúa đã gây thiện cảm trước với chúng ta bằng tình yêu của Người, và bằng cách đòi hỏi chúng ta, đến lượt mình, yêu và phục vụ Người, Thiên Chúa chỉ muốn thông ban và tìm những người đáng nhận sự sung túc của kho báu vô tận của Người, bởi Người mong chúng ta hoàn hảo; sau khi đã tạo dựng chúng ta theo hình ảnh Người, Người còn muốn cho ta thăng tiến đến Người bằng những bậc thang của đức ái và của đạo, nhờ vào mối dây thiêng liêng nối ta với Người, để ta hiện diện bên Người và ta cảm nhận hạnh phúc dào dạt nơi Đấng chính làHạnh phúc chân thật. Cũng thế ma quỉ, e sợ thấy ta tự tách ra khỏi chúng, mà ta vốn vẫn chịu sự chi phối dưới quyền lực chúng, cho nên chúng làm mọi cách để giữ ta trong sự lầm lạc và ra sức quyến rũ ta đừng thờ phượng Thiên Chúa chân thật nữa. Nào ai có thể tưởng tượng ra điều gì tai hại hơn là gợi lên cho họ sự sai lầm hiểu ngược lại mọi sự tốt đẹp, ví dụ rằng Thiên Chúa mong chờ từ việc cứu rỗi con người vì lợi ích riêng của Ngừơi mà thôi, chứ chẳng phải vì lợi ích của chúng ta đâu; và rằng các thừa sai, khi mang Tin Mừng đến tận cùng bờ cõi trái đất, viện cớ hoán cải lương dân, nhưng thật ra chỉ tìm cách để làm tăng thêm con số nô lệ cho Thiên Chúa của họ ! Chúng tôi đã biết những suy nghĩ tương tự, thoát ra từ môi miệng một vài người ngoại giáo để chống lại những nỗ lực của chúng ta. Đặc biệt có một người ở xứ Đàng Trong, đầu óc chín chắn và hơn nữa sâu sắc, đã mắc phải những lầm lạc kiểu này mà đến giờ chúng tôi đã chưa thể dẫn đến đón nhận giáo huấn Tin Mừng.
Chính để chống lại sai lầm rất độc hại mà Louis de Grenade, trong quyển Dẫn nhập vào bản Biểu Tín, nhấn mạnh với các thầy giảng về điều dạy bảo sau đây nhằm thuyết phục kỹ lưỡng anh chị em ngoại giáo: Thiên Chúa muốn rằng chúng ta phải làm tròn bổn phận đối với Ngài, không phải vì lợi ích cho Ngài, nhưng là vì sự ích lợi của chúng ta mà thôi.
Thánh Tôma nói gì về điều này? “Có lẽ không xứng hợp cho tác nhân nguyên khởi để hòng gặt hái một kết quả nào đó; trái lại, ý định duy nhất của tác nhân phải là thông chia sự hoàn thiện của chính mình, nghĩa là lòng từ ái. Đấng đã có sự viên mãn, thì chẳng còn thèm muốn chiếm đoạt thêm cái gì nữa, nhưng Người rất vui lòng san sẻ sự thiện hảo của mình” (P. I, q. 44, a. 4, cor.). Giống như ngọn lửa thì sưởi ấm, mặt trời thì chiếu sáng, giống như nhà thông thái làm cho các môn đệ tham dự vào học thuyết của mình, cũng vậy phải kết luận rằng trong khi tạo dựng tất cả mọi sự, trong khi hướng dẫn con người với tư cách chung cũng như cá nhân đến cứu cánh của mình, và sau hết, trong khi buộc phải thờ phượng Người, Thiên Chúa chỉ muốn một điều mà thôi: hiệp thông với chúng ta, cho chúng ta tham dự vào những của cải quá ư dồi dào của Người. ( Cat.
Người ta nói rằng mặc dù Người tìm kiếm vinh quang, nhưng không phải vì vinh quang ấy cần thiết cho Người, nhưng để biến thành lợi ích cho chúng ta. Người dùng vinh quang để rộng rãi ban phát cho chúng ta những ơn lành, và không ngừng trút xuống trên chúng ta những kho báu từ lòng nhân từ ứa tràn nơi Người. Nếu Thiên Chúa đòi hỏi sự thờ phựơng trong đạo mà chúng ta mắc nợ Người, Người chỉ đòi hỏi chúng như người cha đòi hỏi sự trìu mến từ con cái mình, như người thầy đòi hỏi sự kính trọng của môn sinh; người cha đòi hỏi vì đã chăm sóc những người mà ông ta yêu mến, còn người thầy đòi hỏi vì đã dạy bảo cho những người đã tôn vinh và kính trọng ông ta. Cũng chính thứ tình yêu ấy thúc đẩy lòng nhân hậu Thiên Chúa phải hiến thân, cùng gợi ý cho tạo vật đáp lại bằng luật thờ phượng, bởi vì Thiên Chúa chỉ có thể là người gia ơn với điều kiện chúng ta thừa nhận sự qui phục và sự lệ thuộc của chúng ta đối với Người.
Sau đây bằng chính những lời lẽ thích đáng là giáo lý thánh Tôma dạy bảo, sau thánh Denis, thánh Augustin và các giáo Phụ khác: “sự thờ phượng đối với Thiên Chúa không nhắm vào bản thân Người ở ý nghĩa vì rằng tự Người đã có mọi vinh quang, và rằng không có bất cứ tạo vật nào có thể thêm gì vào đấy cả. Mục tiêu của Ngài, đó là chính vì chúng ta, bởi vì những tôn kính của chúng ta tạo thành một cử chỉ phục tùng bên trong và vì cử chỉ này thuộc về sự hoàn thiện thiêng liêng của bất cứ hữu thể nào sống trong sự lệ thuộc vào một Đấng khác mà mình lệ thuộc” (2,2, q.81, a.7).
Từ đó sẽ dễ dàng kết luận dựa vào bản chất và yếu tính của cái đức của đạo. Khái niệm này phải quen thuộc với vị thừa sai để ngài có thể dễ dàng suy ra từ đó bản chất của giáo lý đạo. Cũng thánh tiến sĩ Tôma còn thêm mà không kém phần xác đáng: “Chính yếu tính của đạo khiến cho ta chỉ duy nhất tôn thờ Thiên Chúa, dưới quan điểm duy nhất Người chính là nguyên lý nguyên khởi và là Đấng điều tiết mọi sự” (I, c., art. 3). Kết luận: Đức tin hình dung Thiên Chúa như là chân lý, niềm hy vọng như là nguồn mạch của mọi ơn lành, đức ái như lòng tốt tự bản thể; cũng vậy đạo cho chúng ta thấy nơi Thiên Chúa căn nguyên đầu tiên của mọi sự, tác giả của mọi của cải chúng ta, kể cả cứu cánh cuối cùng và hạnh phúc của chúng ta.
Dầu sao cũng thích hợp lưu ý rằng cái đức (hay tinh thần) đạo được xem xét trong chính nó và độc lập khỏi những nhân đức khác, như là cái đức mà những nhà buôn và những người chưa hoàn hảo có được thì khác với nhân đức bác ái được biết và đã được làm cho sống động mà những người hoàn hảo và những vị thánh đã chứng tỏ. Cái sau cho thấy tinh thần hy sinh và hiến dâng như của lễ toàn thiêu thực sự và nâng hồn lên tới Thiên Chúa cho chính Người và chỉ mình Người mà thôi. Cái trước giả định con người lo lắng cho sự cứu rỗi của mình, nâng mình lên với niềm hy vọng, làm cho mình chú ý đến những điều răn của Thiên Chúa, giúp mình phục tùng và tỏ ra là người tuân giữ trung thành những giới răn ấy.
Vậy nếu vị thừa sai nhận thấy nơi con chiên mình những dấu vết sâu đậm của sự lầm lạc đã báo trước ở trên, nhằm chống lại tính chất nhưng không của ân sủng Thiên Chúa, việc quan tâm đầu tiên của ngài phải là dùng mọi nỗ lực để nhổ nó tận cội rễ, thỉnh thoảng ngài cũng phải nhắc nhớ lại chân lý rằng con người đã được Thiên Chúa tạo dựng, để biết, yêu mến và phục vụ Người, và như thế tận hưởng ngay từ dưới trần gian này sự bình an tạo nên hạnh phúc thật ở đời này, và hạnh phúc viên mãn vĩnh cửu sau khi chết.
Để dẫn dắt những người ngoại giáo và những người mới học vào đạo, ngài sẽ không đề nghị với họ xem lòng nhân từ tối thượng và những thuộc tính hoàn hảo vô tận khác của Thiên Chúa như là những lý chứng được xét cách tuyệt đối: bởi là những lý chứng của bậc hoàn hảo. Ngài sẽ chú tâm vào những cái thích hợp và vừa tầm với những người mới bắt đầu, những người mà ích lợi cá nhân là động cơ chính. Vì thế ngài sẽ nhắc lại nhiều ơn lành của Thiên Chúa, tình yêu nhưng không, quan phòng phụ tử của Người và phần thưởng mà của Người dành cho ở đời sau trong niềm hoan lạc. Cassien nói xác đáng thay: “Thiên Chúa, trong khi gây thiện cảm với chúng ta trước bằng tình yêu của của Người, đã chỉ nhìn thấy duy nhất sự cứu rỗi của chúng ta trên lợi ích của mọi tạo vật khác. Cho nên cũng xứng hợp trong tình yêu của chúng ta đối với Người chỉ có một mục đích duy nhất, trên mọi thứ mục tiêu khác ra, đó là chiếm hữu được tình yêu của của Người.” (Coll., II, c. 8). Nhưng con người lẽ tự nhiên có chiều hướng chỉ yêu bằng cách đáp trả cho sự trìu mến đã được cảm nhận, hoặc bằng kỳ vọng sẽ chinh phục được tình cảm đó. Chính lòng nhân từ dịu ngọt của Thiên Chúa, dù hoàn toàn cao cả, cũng cần được nếm thử để lay động rồi làm cảm hóa con tim. Bình thường ta không thể trực tiếp chuyển di từ thứ tình yêu hoàn toàn vị kỷ, có trong mọi thứ tội trọng, sang tình yêu Thiên Chúa tối cao, bằng lòng mến; phải có một bước chuyển tiếp, quá độ: một mối tình, hay đúng hơn hai mức độ tình yêu không trọn vẹn thì chưa thể đạt tới sự hoàn thiện. Tính vị kỷ thả cửa có mất đi sự vô độ thì mới nhường chỗ cho sự khởi đầu yêu mến Thiên Chúa cách chưa mấy hoàn hảo, mà thánh Augustin gọi là tình yêu được công chính hóa. Tình yêu kép này hướng dẫn con người khao khát điều thiện tối thượng, và giúp họ đeo đuổi việc thực hiện nó, nâng đỡ họ bằng niềm hy vọng dựa trên quyền năng vô biên của Thiên Chúa. Cho nên Cassien có lý khi nói thêm: “Cho nên hệ quả là chúng ta phải ra sức nâng tâm hồn lên với nhiệt tình tăng dần lên, từ sự sợ hãi lên niềm hy vọng, từ niềm hy vọng đến nhân đức bác ái hoàn hảo” (Ibid). Đúng lúc này, vị thừa sai phải trình bày lãnh vực tối cao của Thiên Chúa, về quyền năng tối cao của của Người trên tất cả mọi loài thụ tạo, về sự lệ thuộc hoàn toàn và về sự phục tùng cần thiết của chúng đối với Người. Trong những giảng giải của ngài, ngài sẽ hết sức lưu ý để không lấy làm ví dụ uy quyền của một ông vua trên thần dân: bởi thường xảy ra là dân chúng chỉ nhìn thấy nơi vua chúa của họ là những bạo chúa và người ta có nguy cơ hình dung Thiên Chúa tương tự như thế. Ví dụ được đưa ra, như chúng tôi đã chỉ ra rồi, là ví dụ về uy quyền của người cha dùng quyền tối thượng của mình vì hạnh phúc của con cái. Từ đó họ sẽ hiểu trên bình diện cao hơn, lãnh vực tối thượng của Thiên Chúa, vốn là hạnh phúc, sự thiện hảo tột bậc không thiếu chút gì, được thông chia cho ta chỉ hoàn toàn vì lợi ích con người; họ sẽ thấy rằng mọi sự đều có lợi cho con người, miễn là con người luôn phải phục vụ Thiên Chúa.
Cũng thế đối với ý tưởng về sự phục tùng của con người đối với Thiên Chúa. Rất hữu ích khi đưa ra một ý niệm chính xác, để đừng lẫn lộn với ý tưởng phổ quát về thân phận nô lệ. Thật vậy, con người không phải phục vụ Thiên Chúa theo kiểu nô lệ bị bó buộc phải làm việc cho chủ mình, cho quyền lợi của ông ta mà thôi, không lợi lộc gì cho chính mình, không hy vọng có tưởng thưởng gì cả. Chính như những con người mà chúng ta tuân phục luật lệ của Thiên Chúa và được đặt dưới sự hướng dẫn và trợ giúp của Người. Các giới răn Người đối với chúng ta là một chỗ dựa; chính Người là người hướng dẫn cho chúng ta hành động cách thích hợp và như thế đạt tới cứu cánh của mình.
Vào thời gian thuận tiện, vị thừa sai sẽ làm cho những người chưa tin và những người mới theo đạo hiểu rằng lý do cho những lễ vật hiến dâng cho Thiên Chúa không phải cho nhu cầu Người cần. Thánh Augustin nói: “cần phải tin rằng Thiên Chúa không có nhu cầu nào cả, từ súc vật lẫn bất cứ thứ gì có thể hư đi và thuộc về thế gian này, cũng không cần cả sự công chính của con người; việc thờ phượng đối với Thiên Chúa, như Người đòi hỏi, thì hoàn toàn vì lợi ích của con người, chứ không phải lợi ích cho Thiên Chúa. Không ai nói mình đã phục vụ nguồn nước bằng cách uống nước của nó, hay phục vụ ánh sáng bằng cách thấy được nhờ vào nó” (De Civ. Dei, lib. 10, c. 5).
Cũng không phải vì lý do nào khác mà Thiên Chúa đòi hỏi những hy sinh vốn là đối tựơng của các nhân đức đối thần. Cũng lại vì lợi ích chúng ta mà thôi. Tại sao Người lại đòi hỏi chúng ta phải tin? Để tưởng thưởng đức tin chúng ta bằng sự hưởng kiến vĩnh phúc. Tại sao phải trông cậy, nếu không phải là để lấp đầy những nguyện ước của những người mà niềm hy vọng thúc đẩy cầu nguyện? Tại sao là đức ái, nếu không phải để đổ đầy bằng tình yêu những người đang yêu và để hiến thân cho họ, mong cho họ hưởng được niềm hạnh phúc vĩnh cửu?
Biết sự cần thiết phải thờ phượng Thiên Chúa thì chưa đủ; còn cần phải có ý niệm rõ ràng về bản chất của việc thờ phượng, của những luật lệ và giới răn của đạo; việc hiểu biết này là cần thiết đối với mọi người, nhưng đặc biệt hơn đối với các thừa sai và các thầy giảng. Bởi vì làm thế nào đem dân chúng ra khỏi những tuân giữ vô ích và mê tín của họ để hứơng về đạo thật, nếu chính các ngài không hiểu biết?
Con người có hai cuộc sống: cuộc sống hiện tại ở đời này và cuộc sống khác đợi mình ở đời sau. Từ đó đương nhiên phát sinh hai bộ luật cần thiết: luật tự nhiên, có nguồn gốc từ Thiên Chúa, chi phối đời con người ở dưới thế để khiến họ sống sao cho thích hợp và hạnh phúc; rồi luật siêu nhiên, có nhiệm vụ đưa con người vào đời sau để hưởng hạnh phúc mà họ không thể đạt tới bằng sức tự nhiên.
Luật đặt ra cho ta những qui định liên quan đến việc thờ phượng Thiên Chúa và những phương cách riêng để đạt tới cuộc sống hạnh phúc, đó là điều mà ta gọi là luật đạo, luật tôn giáo. Bản chất của luật này được định nghĩa như sau: là lề luật hướng dẫn các bổn phận theo lẽ công bằng ta phải tuân giữ đối với Thiên Chúa vốn là Căn nguyên và Đấng điều hòa hoàn vũ.
Nhưng chữ đạo đều được dùng, theo ngôn ngữ thông thường, trong luật lệ nêu trên và trong cái đức của đạo, cho nên tránh sự lầm lẫn và nên làm cho người ta nhận ra hai nghĩa khác nhau. Mọi người đều hiểu cái đức trong đạo cùng một cách (đạo đức?); nhưng người ta lại có nhiều ý tưởng về luật đạo, bởi vô số tôn giáo cùng xuất hiện trên thế giới. Cái đức trong đạo nằm trong ý muốn, còn luật đạo thì trong trí khôn. Cái trước giúp con người tôn thờ Thiên Chúa trong hành vi thờ phượng Người cho phải lẽ. Cái sau chỉ cho chúng ta trình tự phải theo để thể hiện việc thờ phượng này. Cái trước có đối tượng là mọi cử chỉ lệ thuộc vào ý muốn của chúng ta (mặc cho một khả năng khác có can thiệp vào hay không), những cử chỉ này đồng qui vào việc phục vụ Thiên Chúa, căn nguyên đầu tiên và Đấng điều tiết mọi thứ hiện hữu; cái sau, ngoài điều có liên quan đến việc thi hành chính những cử chỉ này, còn bao gồm những giới luật liên quan đến những nền tảng căn bản của cái đức này, cộng thêm việc có đạt được, phát triển và hoàn thiện đức ái hay không, vốn là cứu cánh và sự hoàn thiện chính mình. Từ ý kiến nhất trí và không thể nghi ngờ của các thánh Giáo Phụ và các thần học gia, hơn nữa, của toàn thể Giáo Hội, luật đạo mà chúng ta gọi cách thông dụng là Giáo lý Công giáo, chứa đựng chủ yếu những giới luật của ba nhân đức đối thần: đức tin, đức cậy và đức ái cùng việc thờ phượng chỉ dành riêng cho một mình Thiên Chúa mà thôi, cả bên trong lẫn bên ngoài. Chúng ta hãy nói thêm: từ Adam cho đến ngày nay, con người chỉ đạt đến hạnh phúc vĩnh cửu bằng những phương tiện sau đây: đức tin vào Thiên Chúa duy nhất và vào Chúa Giêsu Kitô, Đấng Trung Gian, được nhận biết minh hoặc mặc nhiên, và tin vào những tín điều của đạo mà chúng tôi đã chỉ ra ở trên; niềm hy vọng đạt đến hạnh phúc vĩnh cửu nhờ công trạng và nhờ sự trợ giúp của ân sủng từ Đấng Trung Gian này; đức ái, nghĩa là tình yêu Thiên Chúa trên hết mọi sự; sau cùng, việc thi hành sự thờ phượng duy nhất chỉ dành cho một mình Thiên Chúa mà thôi.
Lý do cho bộ giới luật bao gồm bốn nội dung trên thì dễ nhận ra. Trách nhiệm của đạo là buộc con người giữ bổn phận tiên quyết là phải phục tùng hoàn toàn đối với Thiên Chúa. Tuy nhiên sự phục tùng đầy đủ và hoàn toàn phải gắn chặt con người vốn thấm nhuần những giới luật của Chúa trong lòng, với việc thực hành đức tin, gắn kết trí khôn mình vào sự khôn ngoan vô biên và tính trung thực của Thiên Chúa; sự phục tùng chỉ dựa cậy vào sự toàn năng của Người để hiến dâng Người mọi nghị lực của mình; sự phục tùng, bằng đức ái, thì mọi tình cảm trìu mến đều hướng về và dành cho Người, vốn là lòng nhân từ tột bậc; sự phục tùng, bằng việc thờ phượng bên ngoài Thiên Chúa duy nhất, biến chính thân xác thành sự nô lệ dịu êm. Bởi vì thân xác cũng như tâm hồn, đều lệ thuộc ân huệ Thiên Chúa ban, cả hai phải phục tùng Người và được dành vào việc phục vụ Người, và con người có quyền chờ đợi phần thưởng cho hành vi thần phục kép này.
Về quan điểm cứu độ, nhận thức quan trọng mà con người phải để ý trước tiên, đó là sự thiết yếu rõ ràng phải có những giới luật mà chúng ta đang nói ở đây, và trong việc này luật đạo đóng vai trò quan trọng của nó. Việc hiểu biết đầu tiên và tối cần nhất cho con người, chính là hiểu biết về thực chất niềm hạnh phúc lớn lao của mình: nó có tầm quan trọng đến nỗi chúng ta phải sống sao cho có nề nếp, hợp thuần phong mỹ tục. Nhưng để đến đó, cũng như để thâm nhập vào những mầu nhiệm cao cả khác của đạo Kitô, có thực tế đáng buồn là tâm trí con người do thiếu ánh sáng siêu nhiên soi dọi, dễ trở nên mù loà và gặp rất nhiều sai lầm; kinh nghiệm của các triết gia cổ đại và những nhà hiền triết mọi thời thì còn đó để chứng minh cho điều này, và như vậy ta thấy sự cần thiết phải có đức tin để nhận biết được sự thiện hảo này.
Tuy nhiên, việc đạt được thiện hảo này thì ngoài tầm với tới của thân phận con người. Thánh Augustin nói: “chỉ Đấng đã tạo dựng nên con người mới có thể làm cho đương sự hạnh phúc được”. Do đó rõ ràng ta phải cần đến niềm hy vọng, chỗ dựa cần thiết cho con người để vượt qua mọi cản trở đến với ơn cứu độ và để cho họ vững bước trên con đường thực thi những giới răn của Thiên Chúa.
Sự cần thiết của đức ái cũng từ đó mà xác lập. Nếu đức ái không yêu cầu và không là động lực khởi phát, thì mọi hành vi do đòi hỏi của tự nhiên mà có và mọi thứ đáng thán phục đều trở nên khô cằn và không có lợi cho việc đạt tới cõi vĩnh phúc. Nếu hạnh phúc vĩnh cửu là phần thưởng cho nhân đức và là kết quả của lòng nhân từ vô biên của Thiên Chúa đối với ta, thì có gì đáng ngạc nhiên khi Người dành những sự hào phóng của Người cho những ai có công trạng, đã minh chứng được tình yêu đối với Người. Tình yêu giống như cội rễ và là thước đo của công trạng: nó xác định ý chí của đối tượng phải đáp trả lại tình yêu bằng sức chiến đấu cách quảng đại cùng với Đấng đang yêu mình.
Hơn nữa, tình yêu bắt nguồn trong sự giống nhau. Tự mình Thiên Chúa là một tình yêu hoàn hảo – thánh Gioan nói với chúng ta điều đó: “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1 Ga 4,8). Vậy Người sẽ trao tặng tình yêu cho ai, nếu không phải cho những người yêu mến Người bằng tinh yêu hoàn hảo?
Cuối cùng, trong khi tuyên xưng Thiên Chúa là tác giả và là Cha của nhân loại, trong khi ca tụng vẻ đẹp vô biên và sự dịu dàng không gì sánh ví của Người, hiển nhiên đạo chỉ cho chúng ta thấy toàn bộ bề rộng của tình yêu mà chúng ta mắc nợ Người. Khinh chê giới luật bác ái này, hoặc xem thường, ta sẽ tỏ ra không xứng đáng với những phần thưởng đời đời dành sẵn và tự kết án chính mình với những hình phạt chính đáng, nghiêm khắc dành cho những kẻ vô ơn.
Nếu vị thừa sai và thầy giảng nhớ được khái niệm về tôn giáo này, các ngài sẽ say mê sắp xếp thứ tự và kết nối với nhau những phần giảng giải khác nhau này, và sẽ gặp dễ dàng trong việc bác bỏ những sai lạc của những người chưa tin.
Khái niệm như thế về đạo thực ra ở trong tầm hiểu biết của lương dân; dầu vậy cũng như trong mọi môn khoa học khác, ông thày sẽ không trình bày tất cả cùng một lúc và không theo thứ tự, nhưng sẽ tiến hành từng phần rành mạch, ngay cả trong trường hợp những người nghe có trình độ, ta chỉ trình bày Giáo lý Công giáo từng phần một và bằng lối tiệm tiến.
Nhưng trong khi dạy dỗ lương dân điều họ phải tin, phải hi vọng và thi hành, giảng viên trước tiên phải cố gắng tìm cách làm cho họ tuyên tín, diễn tả những cử chỉ về niềm hi vọng, đức ái và thực hành sự thờ lạy, nhằm để từ từ cổ vũ họ đến lòng đạo đức và gây cho họ có những tâm tình đạo đức. Thầy có thể bắt đầu bằng sự khát vọng tự nhiên của mọi người hướng đến hạnh phúc đích thực của mình; trên hết mọi điều, người ta hăm hở tìm kiếm hạnh phúc hoàn hảo. Từ đó đi đến kết luận mọi người, nếu khôn ngoan sẽ hết sức chăm lo tìm cách để thỏa mãn niềm khao khát tự nhiên này trọn vẹn cả con người mình, để tìm những phương cách đạt đến đó. Lối cư xử tốt và lòng đạo đức, điều kiện kép và tối cần thiết để đạt được hạnh phúc đời đời.
Tiếp sau đó Thầy sẽ cho thấy sự bấp bênh và trống rỗng, mà trong đó các nhà thông thái và các triết gia ngoại giáo đã phân vân trước vấn đề rất cần thiết như thế, hoặc họ đã giữ im lặng thái quá, hoặc là họ bỏ qua không nói và dạy cho dân chúng biết. Như vậy hầu như họ vẫn còn bị bóng tối dày đặc bao trùm, theo bản năng thô ráp của họ, sống trong phù phiếm và bạc nhược, đắm mình trong khoái lạc đáng xấu hổ nhất và sẽ phải chết thảm thương.
Thầy sẽ thêm rằng câu trả lời cho những câu hỏi trên được biết rõ đến mức hiển nhiên chỉ bởi những ai thờ lạy Thiên Chúa chân thật nhờ các lời dạy của Thiên Chúa, rằng họ cũng vậy, cũng có trong tay phương cách đạt được sự hiểu biết này mà không phải cố gắng quá sức, miễn là họ chịu mở rộng lòng đón nhận ánh sáng đức tin và tỏ ra ngoan ngùy với những lời dạy của những sứ giả của Thiên Chúa. Cuối cùng, trong chừng mực hoàn cảnh đòi hỏi, Thầy có thể đề cập và cắt nghĩa giáo lý thật và lành mạnh liên quan đến chính thực chất của hạnh phúc, và những phương cách để đạt đến đó, đó là: Đức tin, Đức cậy, Đức mến và việc thờ phượng Thiên Chúa Duy Nhất. Vị Thừa Sai luôn để ý rằng đây không phải là chỗ để chứng minh sự cần thiết của đức tin, ngay cả đề cập đến nó cũng không. Ngài sẽ bằng lòng với việc trình bày cho những người chưa tin những đề mục của đức tin mà chúng ta vừa trình bày, và nài xin Thiên Chúa ban cho họ ánh sáng đức tin trong lòng, sẽ ghi dấu ấn cho sự tán đồng và sự tin tưởng cũa họ không phải là dấu ấn của loài người mà là dấu ấn hoàn toàn thiêng liêng. Sẽ dễ dàng nhận thấy sự vững chắc của niềm tin nơi họ và thực tế đức tin nơi họ qua những cử chỉ tự phát về đức trông cậy và lòng mến. Chính ngài sẽ quan tâm cổ vũ giúp họ thi hành những cử chỉ ấy.
Những chân lý này thì rất rõ ràng và hòa hợp với ánh sáng của lý trí tới mức mà ai đã được giảng dạy và hiểu những chân lỳ này, thì giống như vừa ra khỏi một giấc mơ dài và ngạc nhiên thấy mình đã chìm đắm lâu như thế trong bóng tối lầm lạc, vô lý đến như thế. Tuy nhiên cũng không hiếm gặp những người ngoại giáo, thán phục và hoàn toàn bị thuyết phục bởi tính đúng đắn của các tín điều. Tuy nhiên, họ vẫn còn quyến luyến với việc thờ cúng ngẫu tượng. Họ khó bỏ những nghi lễ tổ tiên và những thói xấu tiêm nhiễm từ nhỏ để đến với những cái tốt hơn. Cho nên phải bắt chước gương thánh Phaolô ở Athènes, ngài càng đề cao Thiên Chúa lên cao trong những bài diễn văn của mình, thì ngài càng hăng say tấn công ngẫu tượng. Cũng vậy, vị thừa sai sẽ không đề cập vấn đề cách qua loa và cho xong chuyện, nhưng hết sức lưu ý và cố gắng trừ tận gốc khỏi tâm hồn những người chưa tin sự quyến luyến thờ cúng ngẫu tượng đáng chê trách này.
Để làm cho việc thờ cúng ngẫu tượng là việc vô ích hiển nhiên, chỉ cần cho họ thấy nguồn gốc tệ nạn này là đủ rồi. Bốn nguyên nhân chủ yếu được xem như là cội nguồn của việc tôn thờ ngẫu tượng. Thứ nhất là sự yếu đuối của đầu óc con người sống trong sự thiếu hiểu biết về Thiên Chúa. Không đủ khả năng thoát ra khỏi vật chất và nâng mình lên đến cội nguồn thiêng liêng của mọi sự. Nó trao tặng những vinh quang thánh thiêng cho những thụ tạo mà nó gặp thấy một sự xuất sắc nào đó hoặc từ chúng phải dội lại một lợi ích nào đó.
Thứ hai là tham vọng của vua chúa. Bằng cách dựng tượng mình và trưng bày những thần tượng vô ích, họ tự gán một cách trái phép cho mình những vinh dự thần thánh, nhờ vào sự xu nịnh của triều thần. “Người ta cho rằng, thánh Augustin nói, những vị thần trước kia là con người, và người ta dành cho mỗi vị những vẻ trân trọng riêng, tuỳ theo tài cán, thói quen, cử chỉ hoặc những cuộc phiêu lưu của mỗi vị, tuy rằng các vị ấy có được sự thần thánh hoá là nhờ qua trung gian những triều thần của mình. Và việc tôn thờ này, chính họ đã gieo rắc khắp nơi bằng cách lén cài đặt vào những tâm hồn, giống y như ma quỉ, vốn luôn khao khát những quang cảnh vô ích. Các nhà thơ đã thêm thắt hoa hoè vào đấy bằng những lời nói dối và những đầu óc lường gạt lại thêm vào đấy mồi nhử là những lời cầu xin” (De Civ. Dei, lib. 7, c. 18).
Thứ ba là tình yêu quá mức, hoặc thuộc về người cha hoặc thuộc người con, được đẩy lên đến mức mù quáng. Sách Khôn Ngoan nói về điều này: “Bố hao mòn tang con chết yểu, nhớ con bất hạnh bị cất đi, ông đã làm tượng, con người đã chết bấy giờ. Từ nay ông kính như là thần linh, ông truyền cho thủ hạ tiết mầu truyền thụ. Với thời gian, thói tà nên vững, giữ như luật lệ” (Kn 14, 15-16.)
Thứ tư và là nguyên nhân chính là thói ranh mãnh của ma quỉ. Những con khỉ của Thiên Chúa, hay đúng hơn là kẻ thù không đội trời chung với Người, cũng ghen tức với hạnh phúc con người, chúng xảo trá thúc đẩy con người, bị lôi kéo bằng những lợi lộc vật chất, xa lánh việc thờ phượng một Thiên Chúa vô hình để quay sang những ngẫu tượng bất động, là chỗ họ tìm những giải đáp, những tiên đoán và những xúi giục của chúng.
Đó là những nguyên nhân của việc thờ cúng ngẫu tượng. Có lẽ chúng ta nên nói chính xác hơn: tội lỗi đích thực là cội rễ mà từ đó chúng phát sinh. Tội lỗi đã làm con người trở nên u tối đến mức họ sa vào mù quáng đáng phàn nàn đối với chính Tác giả đời sống của họ, mà các tầng trời ca tụng vinh quang.
Lấy đi như thế của Thiên Chúa vinh dự mà Người đáng được hưởng, để gán nó cho một tạo vật, đó chính là thứ tội mà vị thừa sai có bổn phận cấp bách phải tố cáo cái tội tày trời đó. Sao vậy? Nếu thần dân lật đổ vua khỏi ngai vàng bằng bạo lực, nếu con cái đuổi cha mình hoặc giết ông ta, thì phạm tội khi quân hoặc là tội giết cha. Vậy thì tội ác nào mà nó không phạm, kẻ tuyên chiến với Thiên Chúa, với Vua Duy Nhất của vũ trụ, với Đấng chu cấp như một người cha mọi nhu cầu cho con người? Kẻ ấy dám gạt Người ra khỏi lãnh địa của Người, không biết tý gì về bản chất Người, hoặc ngay cả gạt bỏ mọi ý tưởng về Người, và rời bỏ cội nguồn của mọi hạnh phúc để tự giao phó cho ma quỉ, hoàn toàn ô uế và bỉ ổi.
Thỉnh thoảng, sẽ có ích khi chứng minh, bằng những lý lẽ chắc chắn, sự sai trái của việc thờ cúng ngẫu tượng. Tiên tri Baruch đã làm việc ấy rất khéo léo trong chương VI.
Mặt khác, không được khoan dung với thói ba hoa của dân ngoại. Thỉnh thoảng họ khoe khoang những kết quả đạt được nhờ những lễ tế cho ngẫu tượng và những lợi ích mà họ thu được cho mình nhờ vào việc cúng bái ấy. Nhưng phải thường nhắc họ lời thánh Augustin: “Rất nhiều người đã được chuẩn nhận, nhưng bằng những cách thức khác nhau: không những người công giáo mê tín, nhưng có cả những người ngoại giáo, những người Do thái, những người theo dị giáo, họ đều là môn đồ cũa những sai lạc khác nhau và nô lệ cho đủ mọi kiểu mê tín. Họ cũng được chuẩn nhận ngay cả do những thần linh quyến rũ, lại tỏ ra bất lực nếu không được thần linh cho phép. Trong những dự định cao cả và không thể hiểu thấu, chính Thiên Chúa sẽ phán đoán điều thích hợp để ban cho mỗi người. Hoặc là chính Người chuẩn nhận chúng, hoặc cho phép chúng được chuẩn nhận để trừng phạt thói xảo quyệt của họ, hoặc nâng đỡ sự nghèo túng của họ, hoặc làm cho họ nhớ lại sự cần thiết phải lo lắng cho việc cứu rỗi đời đời của họ” (De Unit. Eccl.,
Như vậy những lời động viên của vị thừa sai đối với những người chưa tin sẽ duy chỉ thúc giục họ rửa sạch tội ác trong nước mắt đầm đìa. Khi họ đã có vẻ biện giải cho những lầm lỗi của mình bằng cách đổ thừa tại mình không biết, thì như thánh Phaolô đã làm với những người thành Athènes (Cv 17,23). Ngài sẽ ân cần khuyến khích họ cách cương quyết, nhưng không quá lộ liễu, hãy ăn năn và sám hối. Ngài sẽ lưu ý họ chống lại những loại sám hối khô khan thiếu mục đích; ngài sẽ làm cho họ nhận ra rằng ngay cả những của bố thí, chay tịnh, của lễ và những tiếng thở than cũng không ích gì nếu Thiên Chúa không nhận thấy một biểu hiện đau khổ chân thành nơi một tâm hồn thực sự ăn năn; ngài sẽ cho họ nhớ rằng cái chết không xa và nó có thể xảy ra mỗi ngày, rằng sự phán xét của Thiên Chúa thì kinh khủng và những hình phạt trong hỏa ngục thì đời đời. Những kẻ, do chưa hoàn toàn bị thuyết phục, tỏ ra do dự, ngài sẽ mạnh mẽ cổ vũ họ khẩn thiết nài xin sự trợ giúp của Thiên Chúa sẽ dẫn dắt họ tìm kiếm đức tin thật và giúp đỡ họ có được đức tin ấy. Thiên Chúa luôn trung thành, kẻ mà Người kêu gọi và lôi kéo, Người sẽ không để kẻ ấy lạc đường nếu thấy kẻ ấy biết vâng lời, nhưng Người sẽ chỉ con đường phải theo và sẽ giúp đương sự bằng những thần cảm để đi theo con đường ấy mà không bị giao động.
Ngài sẽ động viên mọi người sốt sắng đọc ba lần mỗi sáng kinh sau đây. Eusèbe kể rằng kinh này ngày xưa đã được chuẩn y bằng sắc lệnh của hoàng đế Constantin để những người ngoại giáo sẽ tụ tập mỗi chủ nhật đọc lên Thiên Chúa bất tử mà thôi “Chúng con đã học biết Ngài, Ngài là Thiên Chúa duy nhất; chúng con kêu cầu sự giúp đỡ cũa Ngài. Chính nhờ Ngài mà chúng con đã chiến thắng, chúng con đã đánh bại quân thù, chúng con xin tạ ơn Ngài về những ơn lành đã nhận được và chúng con hy vọng vào những ơn lành tương lai nữa của Ngài” (Euseb. Pamphil., de vita Constantini, lib. 4, c. 20)
Mỗi khi vị thừa sai phải nói việc đạo với những người chưa tin, hoặc nơi riêng tư, hoặc nơi công cộng, ngài sẽ tránh trình bày ý kiến trước khi khéo léo bắt họ nói trước, họ hoặc các thày cúng của họ, cho biết quan niệm của họ về vị thần và sự tôn kính phải có với vị ấy, về hạnh phúc tột cùng của con người và những phương cách đạt đến đó, về gốc gác của giáo phái riêng của ho, và chung chung về các vị thần của họ. Những giải đáp của họ như vậy sẽ cung cấp cho ngài dịp để giảng dạy và dịp vào đề. Hành động như vậy chắc chắn sẽ hiệu quả hơn là trình bày ngay lập tức giáo lý về đức tin: nhiều điều phi lý mà họ sẽ vấp phải sẽ cho phép ngài làm cho họ phải nhận mình dốt nát, trong khi nếu ngài đã đi bước trước trong cuộc thảo luận, ngài sẽ không thể buộc tội họ là sai lầm sau khi đã vào vai người giảng dạy. Lịch sử cho chúng ta biết rằng phương pháp như thế đã thường được thánh Fr. Xavier sử dụng và kinh nghiệm đã cho chúng ta thấy đó là phương pháp tốt.
Gương thánh Phaolô ở thành Athènes chứng minh rõ ràng thông thường việc rao giảng Tin Mừng không được mọi người đón nhận theo cùng một cung cách, nhưng tùy vào tâm tình và thái độ của mỗi người. Thánh Luca nói cho chúng ta sau bài giảng tuyệt diệu, thì “có kẻ cười nhạo, có kẻ lại nói: chúng tôi mong được nghe ông lại khi khác nữa về điều ấy; nhưng cũng có người trở thành môn đồ và tin nhận.” (Cv 17,32-34). Người giảng đạo, cũng thế phải thay đổi phương pháp của mình. Để người ta hiểu chúng ta tốt hơn, chúng ta sẽ chia những người nghe thành những hạng khác nhau, tùy theo thái độ của họ đối với đạo. Chúng tôi đã tin rằng phải thêm bài trình bày ngắn này và tiếp theo là vài qui luật tích cực mà kinh nghiệm mọi ngày đã chứng minh là rất có ích cho các thừa sai (Becanus, in praefatione manual. controvers). Có những người ngoan cố, họ biết đạo của họ không phải là đạo thật hoặc ít ra họ có những lý do rất có căn cứ để nghi ngờ về nó. Nhưng, do kiêu ngạo thuần túy, họ vẫn cố chấp gắn bó với giáo phái của họ, họ sợ bị coi là, nếu họ bỏ đạo, không chung thủy và nhẹ dạ, hoặc sợ thấy việc dự kiến trở lại đạo công giáo như là một thất bại. Những người như thế rất hiếm khi trở lại đạo, họ có con tim chai cứng và đầu óc quá kiêu kỳ. Họ giống những người Pharisêu đã được đề cập: “vì lòng dân này đã ra chai cứng, chúng đã nặng tai nghe, chúng đã nhắm mắt lại, kẻo mắt thấy được, tai nghe được, lòng hiểu được mà trở lại và Ta lại chữa lành chúng.” (Mt, 13, 15).
Với những người như thế, không được khiêu khích cũng không nhận vào những cuộc thảo luận; phải trước tiên tìm cách gợi cho họ biết sự khiếp sợ chính đáng những phán xét của Thiên Chúa. Thỉnh thoảng, nếu ta thấy thích hợp để trả lời những khiêu khích hoặc đọ sức với họ, thì có hai thận trọng cần lưu ý với những người lạc giáo. Trước tiên phải giữ họ trong khuôn khổ một đề tài được xác định rõ và ngăn không cho họ chạy trốn qua vấn đề khác, ngay khi họ cảm thấy bị dồn ép ở đề tài đầu; thứ đến, thỉnh thoảng lại làm họ bối rối và trách họ bằng lời mà Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta đã nói với những người thuộc bè Sađốc: “Các ông lầm! Các ông không tường Sách Thánh và quyền năng của Thiên Chúa” (Mt 22,29). Ta sẽ có ở đó một phương cách tuyệt hảo để làm giảm đáng kể uy quyền của họ đối với dân chúng. Dân chúng một khi ít coi trọng họ hơn, sẽ dễ dàng lắng nghe sự thật và nhiệt tình đón nhận.
Dù vậy, ta sẽ lưu ý không để xảy ra vô ý trong những lời quở trách và sự bối rối phải đến từ lập luận: sự bối rối ấy không phải do bị nguyền rủa nhưng do những quở trách đúng đắn và lợi thế hiển nhiên trong cuộc thảo luận. Sự nổi giận dễ xảy ra khi nói với những kẻ ngoan cố và những kẻ không khoan nhượng và nó để lại những hậu quả rất nghiêm trọng. Vị thừa sai phải kiên nhẫn hơn bình thường: không bao giờ ngài tỏ ra thù ghét chính bản thân những người chưa tin; nhưng ngài hoàn toàn dành sự thù ghét đó cho những sai lạc và thói xấu của họ.
Loại người thứ hai: loại người nhiệt tình. Không phải tính kiêu ngạo hoặc ngoan cố thúc đẩy họ nữa, nhưng đúng ra là sự không biết và sự đơn sơ. Tin sai vào chân lý của giáo phái họ, họ rất nhiệt thành, một sự nhiệt thành bảo vệ chân lý ấy đến mức mà người ta có thể tin họ, sẵn sàng hy sinh cuộc sống hơn là chối bỏ nó. Thánh Phaolô đã ở vào trường hợp này trước khi trở lại; chính ngài nói với chúng ta điều đó: “quả anh em đã nghe biết về đời sống của tôi xưa trong đạo Do thái: tôi đã da diết bắt bớ và ra công triệt hạ Hội Thánh của Thiên Chúa; trong đạo Do thái, tôi đã vượt xa bạn đồng trang trong dân tộc tôi và rất mực nhiệt thành đối với các truyền thống cha ông” (Gl 1,13-14). Những con người như thế, phạm tội không phải do ác tâm mà do không biết, thường là đối tượng của lòng thương xót Thiên Chúa. Cũng chính thánh Phaolô thú nhận điều đó, khi nói về chính mình: “Tôi đã được thương xót vì bởi vô tri, vì không có đức tin mà tôi đã làm thế” (1 Tm 1,13). Phải đối xử khoan hồng với những người ấy, tránh thúc đẩy họ đến tận cùng, nên gắn bó với họ bằng sự giúp đỡ, bằng lòng yêu mến và khoan dung, trao phó họ cho Chúa trong kinh nguyện, hơn là dồn họ bằng lập luận và tư tưởng. Chính lời cầu nguyện của thánh Têphanô đã sản sinh ra thánh Phaolô cho Giáo hội, và nước mắt của thánh Monica đã cho thánh Augustin.
Một số người khác thì vô cảm. Sự ngoan cố trong lầm lạc của họ không phát xuất từ sự kiêu ngạo cũng không phải từ sự không biết nhưng từ sự đờ đẫn nào đó và những cớ khác mà họ đưa ra. Họ bắt đầu đến với chân lý bằng cách thừa nhận đạo công giáo là đạo thật, nhưng khi ta thúc ép họ tin nhận thì họ lại viện cớ sợ cha mẹ, sợ những đe dọa của quan tòa, họ e ngại sự khinh chê của hàng xóm, sợ mất của cải hay uy tín. Họ cũng nêu ra những lý do khác riêng tư hơn, như không ăn được thịt bò hoặc sau khi chết xác họ sẽ không được hoả táng. Sau hết, họ còn nói rằng giáo phái của họ đã được tập quán lâu đời thừa nhận ở quê hương họ từ nhiều thế kỷ nay.
Cứ cho rằng không hiếm những tính cách như thế, nhất là giữa những kẻ chưa tin, vị thừa sai phải tìm cách sửa trị việc thiếu nghị lực nơi họ và tìm cách cho họ sức mạnh vượt qua mọi trở ngại này. Về vấn đề này, ngài sẽ dành một phần quan tâm để tìm hỏi tập quán của dân địa phương, để phân biệt rõ ràng tính chất ngại ngùng của chúng: dân sự, chính trị hay mê tín? Ngài sẽ cố gắng lo báo cho Tòa Thánh biết mọi sự, ngài sẽ xin Tòa Thánh cho mình biết những tập quán nào sẽ phải lên án, đồng ý hay chiếu cố và nhất là cho ngài biết những phương cách phải dùng để tranh thủ các tâm hồn. Như thế, bằng cách làm mọi việc cho mọi người, ngài sẽ chinh phục mọi người đến với Chúa Giêsu Kitô.
Tóm lại, ngài sẽ đối xử với họ với sự nghiêm trang và nghiêm khắc, dẫu vậy cũng không nên vượt quá ranh giới của lòng nhân từ Thiên Chúa, ngài sẽ chỉ cho họ thấy sự vô ích của những cái cớ mà họ trưng ra; ngài sẽ thường xuyên làm cho họ cảm thấy nhu cầu lo việc cứu rỗi của mình ngay từ bây giờ khi họ còn có thời gian, và đừng làm tổn hại đến việc đoạt được vinh quang đời đời trên thiên đàng, hoặc do ảnh hưởng của việc e sợ dư luận, hoặc do viễn cảnh có được những chức tước ngoài đời, hoặc vì gia đình mình hoặc vì do lòng hiếu thảo mà thực ra là hành động báng bổ.
Cuối cùng là những người do dự. Một sự ngờ vực chợt nảy sinh về chân lý của tôn giáo họ đang theo; họ có một sự khao khát chân thành muốn cứu thoát linh hồn mình; họ tìm kiếm và tự giác đến trình diện với mục đích xin học đạo. Phải đón nhận họ như là những người anh em, đối xử với họ tuỳ theo khả năng của mỗi người, những nhà thông thái và những trí thức thì đối xử khác, còn những người thô thiển và dốt nát thì lại đối xử cách khác nữa. Vị thừa sai sẽ không bỏ lỡ bất cứ dịp nào mà không dạy dỗ họ; ngài sẽ bình tĩnh và nhã nhặn trả lời những bắt bẻ mà họ nêu ra, trên hết, ngài sẽ động viên họ rất khiêm tốn và rất khẩn thiết nài xin Thiên Chúa ban cho họ ánh sáng từ trời cho họ nhận biết con đường họ phải theo.
Lương dân khi đã muốn theo đạo Kitô, đều được gọi là dự tòng trong giai đoạn đánh dấu hành trình đức tin tiên khởi của họ. Họ hy vọng giáo huấn từ các linh mục sẽ cho họ cơ may thoát khỏi bóng tối lầm lạc xưa cũ để bước vào cõi sáng, trở thành con cái Thiên Chúa; họ thực sự quan tâm đến phần rỗi linh hồn của mình. Do vậy ta phải ân cần đón tiếp bất cứ người lớn nào vốn đã cho biết ý muốn gia nhập đạo và xin được học giáo lý; nhưng trước khi đưa họ vào danh sách dự tòng, vị thừa sai phải biết và điều tra cho ra động lực nào thúc đẩy người ấy trở lại, biết đời sống phong hóa và những biểu hiện cụ thể của đương sự, xem thái độ có sẵn sàng không; phải chăng đương sự muốn vào đạo vì giận dữ hay thù oán ai, do yêu hay muốn trả thù, hay muốn tránh tạm thời hình phạt nào đó, hoặc sau cùng vì kỳ vọng vào mối lợi nhuận vật chất hay bất cứ tính toán thủ lợi tương tự nào đó.
Sau khi đã nhận ra ý ngay lành của dự tòng, vị thừa sai cùng với họ cảm tạ Thiên Chúa Cứu Độ, xin Người hướng dẫn và ban xuống ơn soi sáng nội tâm nhằm thấu đạt các kỳ công và sự xét xử công minh của Người. Vị đó nài van Thiên Chúa can thiệp sao cho dự tòng biết hãi sợ sự bất chính, gian tà và khi đã bước vào đường lối sự thật, người dự tòng xứng đáng hưởng ơn Phép rửa tái sinh, trở nên nghĩa tử của Chúa và tên tuổi được ghi vào sổ sách hằng sống.
Vị thừa sai cũng phải biết ứng xử dịu dàng với dự tòng, tránh nói nặng và đừng tỏ dấu quá nghiêm khắc.
Ngài cũng không dạy bảo họ như cách huấn luyện dành cho những ai đã hiểu biết đức tin và đã xác tín. Thánh Tông đồ có nói: “Tôi đã không nói với anh em như với những người thuộc giới thần thiêng, nhưng mà với người phàm xác thịt” (1 Cr 3,1). Cũng trong ý nghĩa đó mà Đức Giêsu đã đưa ra nhận định: “Không ai vá vải mới vào áo cũ; vì miếng vải sẽ ra tồi tệ hơn …” (Mt 9,16).
Do vậy, việc dạy giáo lý cần được tiến hành theo từng bước, đầu tiên phải kiên trì chịu đựng vài điểm bất toàn khi họ chưa tiến triển bao nhiêu trong lòng sùng đạo. Đức Giêsu từng làm gương nhịn nhục như thế khi Người đã sống rất nhẫn nại với các Tông đồ. Cũng điểm này cần theo gương Thánh Tông đồ vốn “trở nên yếu hèn với người hèn yếu hầu có thể thu phục mọi người” (1 Cr 9, 22-23).
Trong các tông thư, các Đức Giáo Hoàng Lêô và Syrilô nhắc dạy ta là để xóa tan các cơn cám dỗ đang vây bủa dự tòng, ta nên thường xuyên cậy dựa vào các nghi thức trừ tà và việc đặt tay do các linh mục thực hiện. Cũng cần để ý thúc nhắc bổn đạo cầu nguyện thường xuyên cho họ, cũng như thúc nhắc cho chính dự tòng luôn biết hướng về Chúa và cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin ban thêm đức tin để bù đắp sự yếu kém lòng tin nơi con”. (Mc 9,23), sao cho họ liên lỷ cầu xin Người khấng ban cho họ một đức tin mạnh mẽ, kiên vững.
Tất cả mọi tín điều trong đạo chúng ta dường như quy vào ba loại chính. Loại thứ nhất gồm những điều mà chỉ cần ánh sáng lý trí sẽ giúp cho thấu hiểu. Dầu vậy hầu hết những chân lý này lại được ơn mặc khải soi tỏ cho con người, y như thể từ một ông thầy thông thái dạy bảo cậu học trò bình thường có thể lãnh hội cách chắc chắn, minh nhiên. Những nhà hiền triết thời cổ đại cho ta cảm nghiệm sâu sắc về điều này, rồi chính họ lại gieo thêm biết bao lầm lạc nữa. Đối với loại tín điều này ta cần nêu lên những điều đã nói ở chương V, tiết 1 trên đây về nền móng cơ sở và sự cần thiết phải có tôn giáo.
Loại tín điều thứ hai bao gồm các chân lý thực ra không vượt quá khả năng lãnh hội của con người. Tuy nhiên những chân lý này chỉ có thể được nhận biết nhờ Thiên Chúa mạc khải mang lại những hiệu quả khác nhau tùy thiên ý và ý muốn của thụ tạo. Nhờ vậy mà ta biết được nhiệm cục tạo dựng các thiên thần và loài người, sự bất toàn và sa ngã của họ, tội tông truyền …
Sau cùng, loại tín điều thứ ba vượt quá trí hiểu con người nhưng không chứa đựng điều gì đi ngược hoặc mâu thuẫn với trí khôn. Tỉ dụ, các mầu nhiệm cao cả về Chúa Ba Ngôi, Nhập thể …
Mọi tín điều trên kết nối theo nhau: loại đầu dọn đường cho loại sau, và các tín điều sau chuẩn bị các tín điều cao cả hơn nữa. Thứ tự này gần như bó buộc phải trình bày như thế cho dự tòng. Chính Đấng đáng kính Bède đưa ra ý kiến: “Các bước khởi sự không nhằm mưu tìm sự toàn thiện, nhưng là những phương tiện dẫn đưa đến đó”. (x. Cv 17).
Do vậy, khi tiến hành dạy giáo lý cho dự tòng, vị thừa sai nhờ ơn Chúa trợ giúp sẽ chứng minh cho dự tòng tin nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa. Đôi khi, nếu ngài thấy tiện hơn khi cho rằng sự kiện trên mọi người đều chấp nhận, thì lúc đó phần việc của ngài là chứng minh chỉ có một Thiên Chúa duy nhất, tự mình mà có, không lệ thuộc ai, phi chất thể, hiện hữu tự đời đời, thông minh sáng láng; Ngừơi quyền năng, khôn ngoan nhân hậu vô biên, và Người đã tạo dựng vũ trụ từ hư vô và không ngừng điều khiển vũ trụ bằng sự quan phòng; Người sẽ ban cho kẻ lành phần thưởng cao quý nhất và phạt kẻ dữ bằng các hình phạt đời đời. Tiếp đó, vị thừa sai trình bày các tín điều đã được nhắc đến trước đây, đồng thời để ý các nhận xét mà chúng tôi đã nêu, đó là mục đích của chúng ta không những chỉ nhằm cung cấp phương tiện nghe lời Tin Mừng dành cho những ai muốn lôi kéo lương dân về với Chúa, nhưng còn nhằm vạch ra các điều luật phải tuân giữ nghiêm chỉnh khi giảng dạy cho những ai đã tỏ ra ngoan ngùy với lời Tin Mừng.
Đằng khác, không có gì đưa lương dân nhanh chóng đến đạo Chúa cho bằng một đời sống thánh thiện thiết yếu cho phần rỗi và đạt đến sự sống đời đời. Do vậy vị thừa sai không được chậm trễ dạy cho dự tòng tuân giữ các bổn phận mà ngay lý trí cho là đúng đắn mà không cần bất cứ sự soi sáng nào khác.
Hệ quả là vị thừa sai cùng với thánh Tông đồ cần khuyến dụ dự tòng phải “từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này” (Tt 2,12). Vị thừa sai phải khuyến khích, áp đặt dự tòng bằng những lý do mà cũng chính Thánh Tông đồ đề ra, đó là ước ao sự vinh quang sắp tới và sợ hãi ngày chung thẩm mà Chúa sẽ thực hiện (Tt 2,13).
Vị thừa sai phải quyết liệt tấn công các dị đoan của dân ngoại cùng những mối liên hệ xấu xa của họ với ma quỷ. Ngài cần mời gọi dự tòng là muốn theo đạo thì phải sớm từ bỏ những hành vi này, chấm dứt xuất hiện tại các đình chùa, phải gỡ bỏ khỏi nhà mình hình ảnh các thần ngoại giáo vốn là các ngẫu tượng, phải xé bỏ và dày đạp dưới chân những kinh kệ và các phương thế ma quỷ khác mà họ đã đón nhận từ các thầy cúng thờ ngẫu tượng.
Vị thừa sai phải vạch ra tính xấu xa của sự dâm ô vốn hoàn toàn không hợp với lý trí lành mạnh, nó làm cho con người khốn đốn, lầm lạc khi đã bị chi phối sâu xa; ngài sẽ khiến họ quan sát xem nỗi đam mê tình dục này một khi đã phá rối con người, sẽ làm cho họ không còn lưu tâm đến những phúc lộc đời đời mà sẽ chỉ kéo họ ham thích hưởng lạc, vừa xấu xa lại vừa chóng qua; ngài sẽ làm cho họ hiểu ra lẽ công bình và rất phù hợp với lý trí khi họ chỉ lấy làm vợ một người phụ nữ độc nhất và không bao giờ được phế bỏ nàng. Nếu họ đã lấy nhiều vợ, trước khi quyết định theo đạo, thì ngài liệu sao cho họ chỉ giữ lại vợ cả và bỏ mọi người vợ khác. Ngài cũng vạch cho họ thấy Kitô giáo hết lòng quan tâm đến tha nhân, hằng đòi buộc mọi người yêu thương tha nhân như chính bản thân, cấm ngặt không được trả thù, nhưng khuyên họ luôn thực thi nhân ái, ngay cả với địch thù mình. Như vậy, dự tòng một khi muốn xứng đáng tháp nhập vào thân mình Chúa Kitô, họ phải quên đi các sự lăng nhục mà mình là nạn nhân, cũng như cố gắng đền bù những lầm lỡ mà chính mình đã gây hại đến danh dự hoặc thiện ích người khác.
Và ngài cũng cần thêm rằng Thiên Chúa luôn quan tâm trước tiên đến các thái độ nội tâm: chính Người dò xét lòng dạ con người, đồng thời Người thấu suốt và xét xử những gì xảy ra. Ngài cần liệu cho dự tòng thấy phải tránh không những hành vi xấu xa mà còn cả những ước muốn và tư tưởng đồi bại nữa; và do vậy, nếu đã phải xa tránh không những hành vi xấu, thì ngay cả tư tưởng xấu bột phát cũng phải bị dập tắt ngay. Ham muốn của cải người khác đã không được phép làm, thì huống hồ việc chiếm đoạt để làm của riêng.
Nếu mọi điều trên họ thấy khó quá trong việc chế ngự các nỗi đam mê, thì vị thừa sai cần liệu sao cho họ đừng ngã lòng mà hãy dựa cậy vào sự cầu nguyện vốn sẽ làm cho ra dễ dàng, nhẹ nhàng những điều phải tuân giữ tưởng chừng như quá khó nếu không cầu nguyện; ngài khuyến dụ họ sẽ chắc chắn lãnh nhận ơn Chúa trợ giúp nếu họ cầu nguyện cho nên. Ngài dạy họ cầu nguyện theo cách thức Đức Giêsu đã dạy các môn đồ; ngài cần bảo họ học thuộc lòng bản kinh ngày Chúa nhật, trong đó có nêu 10 giới răn, gắng nhớ và suy niệm thường xuyên nội dung và quyết tâm trung thành tuân giữ huấn lệnh của Chúa và hằng ngày dâng lên Thiên Chúa ba việc hi sinh: dè chừng tình cảm, lời nói và hành vi của mình.
Thánh Phaolô viết: “Chỉ có một Thiên Chúa, chỉ có một Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và con người: Đức Kitô Giêsu làm người”. (1 Tm 2,5); và Thánh Phêrô thêm: “Dưới gầm trời này không có một danh nào khác đem lại ơn cứu độ cho chúng ta” (Cv 4,12). Việc hiểu biết Đức Kitô cũng như hiểu biết Thiên Chúa là hai vòng tròn quy tâm mà đạo giáo xoay quanh: sau khi rao giảng Thiên Chúa, phải thiết yếu rao giảng ngay Đức Kitô. Tuy nhiên y như việc dạy một khoa học nào đó cần có phương pháp, nghĩa là trình bày điều gì đó cho đúng thời điểm và đúng chỗ của nó, thật không hợp lý tí nào nếu rao giảng Đức Kitô và các mầu nhiệm liên quan đến Người, trước khi đã trình bày đầy đủ cặn kẽ việc loài người sa ngã, vì như Thánh Phaolô tuyên bố: “Đức Kitô Giêsu đã đến thế gian để cứu chuộc tội nhân” (1 Tm 1,15).
Vị thừa sai hướng dẫn dự tòng hiểu sâu sắc tội nguyên tổ, cho họ thấy bức họa đen tối và khốn nạn về những nỗi khốn khổ bất tận cùng những hậu quả tai ương phát sinh, họ sẽ thấy sự u mê, cứng lòng của lòng trí con người, sự trí trá, xen lẫn sự đồi trụy vô độ của ý chí, dục vọng thèm khát lẫn giận dữ, quên lãng những của quý giá đời đời mà hướng chiều về các giá trị trần gian, sự hỗn chiến trường kỳ của xác thịt chống lại tinh thần, và của toàn thể loài người chống lại Thiên Chúa, sau cùng những nối khốn khổ bất tận hành hạ thân xác chúng ta: cơn lạnh và cái nóng, đói khát, bệnh tật và sau cùng không tránh được sự chết. Đứng trước cảnh tượng những nỗi bất hạnh, vừa nhiều vừa trầm trọng như trên, chính chúng ta lại làm chứng về lòng nhân hậu thương xót của Thiên Chúa đối với những sinh vật khác, mà sự khôn ngoan thượng trí của Người ban cho dư dật vượt quá nhu cầu, chính sự mâu thuẫn trên khiến ta có thể suy đến một lỗi phạm tày trời nào đó đã xảy ra vốn là nguyên nhân đầu tiên gây ra tai ương trầm trọng tác hại đến mọi loài như thế.
Chuỗi dài những bất hạnh kể trên không thoát khỏi tầm nhìn của những nhà hiền triết ngoại giáo nổi tiếng nhất, họ đã suy luận y như kiểu cách ta vừa làm, hoặc cũng na ná như thế, họ cũng đủ khả năng để tìm ra nguyên nhân của chúng; nhưng bởi thiếu nguồn sáng đức tin, họ đã rơi vào những lầm lạc lố bịch, khiến chúng ta có quyền nói về họ bằng chính điều mà Thánh Augustin nói về triết gia Platon: “Ông ta đã ghi nhận sự kiện mà không thể hiểu nguyên nhân vì sao đã xảy ra”.
Sau khi đã dẫn nhập vào đề tài như trên, vị thừa sai sẽ giải thích tình trạng hạnh phúc tươi đẹp trong đó con người cũng như các thiên thần được hưởng vì đã được Thiên Chúa tạo dựng, bởi sự tốt lành và cao cả của Người. Cần dẫn dắt khéo léo, hùng hồn, thuyết phục để dự tòng có thể thán phục đứng trước nét hài hòa rực rỡ của một kiệt tác như thế, hầu nhận ra sự tốt lành và khôn ngoan thượng trí của Thiên Chúa, Đấng đã làm nên mọi sự, rồi ngợi khen Người mãi mãi. Sau đó ngài rảo nhanh câu chuyện nổi loạn của các thiên sứ khiến họ đánh mất vẻ đẹp thượng giới đã trao ban cho họ: theo lời Thánh Phêrô, Thiên Chúa trong sự công thẳng uy nghi, “đã không dung tha và đã đẩy họ vào hố địa ngục tối tăm” (2 Pr 2,4). Còn các thiên sứ khác vẫn sống trung tín thì được thông dự phúc vinh quang vĩnh cửu.
Đoạn tới hồi tổ tông chúng ta sa ngã trước cơn thử thách xem ra dễ dàng có thể vượt qua, thế nhưng khi đã nếm vào trái cấm, họ đã gặp nỗi bất hạnh cho chính họ và cho con cháu, đánh mất ân huệ ban đầu. Tội lỗi kéo theo hậu qủa cho họ và con cháu: phạm nhân bị tước mất ân sủng và sức mạnh, nổi loạn, không thoát khỏi những yếu đuối và phải chết, và còn tệ hơn nữa khi đánh mất hạnh phúc đời đời. Một vài ví dụ quen thuộc sẽ giúp dự tòng lãnh hội được bài học.
Sau cùng, về vấn đề tội nguyên tổ, vị thừa sai phải nhớ nằm lòng mục tiêu phải nhắm tới, đó là chỉ cho dự tòng thấy mình cần phải kiếm tìm một thầy thuốc, một đấng đến cứu sau khi đã thấy toàn thể loài người đang phải yếu nhược bất lực. Ngài sẽ trưng ra những chứng cứ đầy sức thuyết phục, rồi sẽ bắt chước đường lối của Thiên Chúa, Đấng đã không công bố tức thời án tử chống lại Ađam và Evà, nhưng Người đã chạnh lòng xót thương, đã an ủi họ hãy hy vọng trông chờ Đấng trung gian cứu độ sẽ đến, để đưa những ai kêu cầu Người thoát khỏi án phạt đời đời, và để biến đổi những đau khổ chóng qua ở đời này thành những phương thế đem lại ơn cứu độ dành cho những kẻ kiên trì; đau khổ giúp họ tuân thủ bổn phận, giúp họ sợ hãi tội lỗi và khiến họ lập công. Vị thừa sai kết thúc bài học bằng việc loan báo Đấng cứu độ mà muôn dân trông đợi đang đến: Người đến xóa đi nỗi thất vọng chán chường của dự tòng, Người đến để đem dũng lực cho họ. Sau cùng vị thừa sai chóng vánh đề cập đến các công việc tốt lành do Chúa Cứu Thế mang lại cho loài người qua các hành vi mang tính chất cứu độ của Người.
Đàng khác, khi bàn về công trình tạo dựng, không thể trình bày quá giản lược công việc gói ghém trong vòng sáu ngày. Nên khai triển chi tiết càng nhiều càng tốt, để thấy đựơc vẻ đẹp, mục tiêu, sự cần thiết, tính chất hài hòa tuyệt diệu nối kết mọi sự qua từng hành vi sáng tạo. Sau cùng nên nêu ra những mối lợi kỳ diệu mà con người có thể hưởng nhờ qua việc tạo dựng. Vị thừa sai cũng lưu tâm cho các dự tòng am hiểu những điều trên, cho họ cảm nhận và luôn luôn trân trọng hơn nữa sự toàn năng, sự khôn ngoan vô biên, tình yêu nồng nàn của Thiên Chúa đối với nhân loại, đến độ họ không còn nại đến uy quyền của các thần dân ngoại nữa mà chỉ còn yêu mến, phụng thờ Đức Chúa Trời chân thật.
Khi phải nhắc nhở đến sự sa ngã, rồi bị kết án của các thiên sứ, ngài sẽ để các dự tòng khám phá ra các thiên sứ này chính là ma quỷ mà dân ngoại vẫn gọi. Những kẻ thù truyền kiếp này vừa của Thiên Chúa, lẫn của loài người được xem là kẻ thù đáng sợ nhất của mọi loài; thế nhưng người tín hữu không việc gì phải sợ hãi chúng: ma quỷ cũng chỉ là loài được tạo dựng dầu dữ tợn cỡ nào, thì vẫn phải phục tùng uy quyền Thiên Chúa, và việc chúng có ra oai tác quái cỡ nào đối với loài người, thì vẫn hoàn toàn trong sự cho phép của Chúa.
Thiên Chúa cho phép chúng đụng chạm đến các kẻ ưu tuyển của Người chỉ vì Người muốn cho họ một mối lợi: nhân đức của họ bị thử thách sẽ có cơ hội tỏ lộ rõ rệt để rồi không những các lỗi lầm cũ của họ được tẩy xóa mà còn thêm công trạng để phần thưởng được lớn lao hơn; được tẩy xóa tội lụy như thế, họ được liên kết trong đức ái chặt chẽ hơn với Thiên Chúa vốn là nguồn cội của mọi ơn thiêng. Chính ý nghĩa này mà Thánh Tôma phát biểu: “Khi ma quỷ tấn công con người, chính là do sự gian ác thúc đẩy; nhưng Thiên Chúa có mục đích rõ rệt khi cho phép chúng hành xử như thế, Người biết rút tỉa điều lành từ sự ác để đưa đến một kết quả tốt đẹp hơn” (P.I, q.II4, a.I).
Đến đây có lẽ có nhiều mối ngờ vực quan trọng cần được giải đáp, những ngờ vực thật sự ám ảnh những người chưa được ánh sáng đức tin soi rọi tới. Ta cần ngừng lại giây lát trên các mối ngờ vực này. Thường thường dự tòng tự hỏi tại sao Thiên Chúa vốn rất ghét tội lỗi, tại sao lại cho phép xảy ra tội lỗi; tại sao khi Chúa tạo dựng thiên sứ và loài người do tự lòng tốt của Người, bộ Chúa không biết họ sẽ phản bội Người sao; tại sao Thiên Chúa vốn vô cùng tốt lành và thương xót, lại muốn phạt tội nhân bằng hình phạt đời đời; tại sao bởi tội của chỉ một người đầu tiên mà Chúa lại phạt hết những người còn lại, ngay khi họ chưa sinh ra đời nữa, và sau cùng, hiểu thế nào tội của Ađam lại lưu truyền cho con cháu, vốn tác động trên linh hồn, mà linh hồn lại không do cha mẹ sinh ra.
Vị thừa sai chớ dại mà “đầu độc” tâm trí dự tòng bằng những câu hỏi cắc cớ như trên để hòng tìm giải đáp cho họ. Ngược lại, nếu dự tòng tự nêu các thắc mắc trên, ngài sẽ gắng tìm cách kìm hãm sự tọc mạch quá đáng của họ, làm sao cho họ tin nhận là trong mọi sự xảy ra thì ý định của Thiên Chúa vừa chính đáng vừa khôn lường. Tốt hơn có lẽ cùng nêu lên với vị Tông đồ dân ngoại: “Ôi ! Những phán quyết của Người thật khó hiểu biết bao, bởi nào ai dám đi dò các ý định của Thiên Chúa?” (Rm 11,33-34). Dầu vậy, sợ anh chị em dự tòng không vui khi không được giải đáp thỏa đáng thì chúng tôi cố gắng cung cấp ở đây một vài đáp án.
Phản biện I: Tại sao Thiên Chúa cho phép tội lỗi xảy đến?
Trong sự quan phòng yêu thương của Người, Thiên Chúa làm chủ và điều khiển mọi sự theo ý định của Người, Người muốn các tạo vật sau khi đã được trang bị bằng những gì cần thiết, được phép hành xử tùy theo tự quyết của mình, do vậy con người, vốn bản tính tự do có thể chọn lựa tùy thích sự thiện hay sự dữ và gắn bó vào đó. Lý do là nếu không có tự do thì cũng chẳng có công trạng gì. Có vẻ như Thiên Chúa được tôn vinh hơn vì sự tốt lành đẹp đẽ của Người tác động trên lòng trí chúng ta, cho phép ta tự do chọn đi theo hay chối từ Người, hơn là cứ nằng nặc buộc ta phải yêu mến Người mãi mãi ! Như vậy khả năng phạm tội chính là hệ quả của tự do con người.
Cũng không phải do không thấy trước hoặc thiếu tốt lành mà Thiên Chúa cho phép tội lỗi xuất hiện. Chỉ cần để ý kỹ sự quan tâm lớn lao của Chúa trên người công chính khi Người gìn giữ đương sự trong tình trạng ân sủng hay khi Người đến trợ giúp trong cơn thử thách; cứ để ý xem với trọn tình thương mà Người cất công kiếm tìm tội nhân, và nồng nàn tình yêu mừng rỡ đón nhận người ấy trở lại và Thiên Chúa nhẫn nại đợi chờ khi đương sự chưa chịu quay về …
Phải thú nhận là Thiên Chúa đáng được chúng ta thán phục và tôn vinh hơn là trách cứ; rõ rệt dù Chúa không muốn, nhưng tự họ tội nhân tự chuốc lấy sự đổ vỡ cho chính mình, đằng khác để tránh tội cho con người, Chúa không chỉ tự hài lòng với việc nghiêm cấm và phạt nặng khi tội đã phạm, nhưng còn tìm cách làm cho điều ác ta phạm trở nên hữu ích cách nào đó, ví dụ, Chúa đã tuyên báo những ý định xấu xa của các anh em ông Giuse (St 37,10) và tội người Do Thái; nhưng từ tội ác của kẻ này người kia, Thiên Chúa đã rút ra được điều thiện hảo: anh em xử tệ với ông Giuse có ngờ đâu đã góp phần vào việc đưa ông đến quyền cao chức trọng để sẽ cứu số đông người đồng hương; người Do Thái đã là những khí cụ đem lại ơn cứu chuộc cho loài người. Thánh Augustin nói: “Thiên Chúa xem việc rút tỉa điều thiện hảo từ sự ác thì có lợi cho con người hơn là không bao giờ cho phép sự ác xảy ra”. Và ngài còn thêm: “Kẻ dữ phạm bao tội ác nghịch lại thiên ý, nhưng ngay cả những gì xem ra chống lại thiên ý cũng không lướt thắng được trí khôn ngoan và quyền năng Người, vì tất cả đều dẫn đến những kết quả hoặc mục đích mà Người thấy trước là tốt đẹp, chính đáng”. (De Civ. Dei, lib. 22, c. I).
Sau cùng nếu quả thật tội lỗi nghịch lại vinh quang Thiên Chúa, thậm chí có năng lực làm tan biến, nhưng chính vinh quang này lại luôn bùng lên mãi và lớn mạnh nhờ sự khôn ngoan của Đấng Tối Cao: sự công chính của Người tỏ hiện qua sự trừng phạt chính đáng tội ác, hoặc lòng nhân từ của Người tỏ hiện trong sự thứ tha. Chắc hẳn tội nhân không góp gì vào vẻ vinh quang Thiên Chúa, nhưng bao kẻ khác lại tán dương Người thay cho họ; chắc chắn tội nhân thay vì đón nhận mà lại từ khước những tia sáng của Mặt trời vĩnh hằng, những ánh quang đó chiếu dọi trên bao kẻ khác, dẫn lối và thắp sáng nơi họ ngọn lửa của tình yêu Thiên Chúa.
Phản biện II: Tại sao Thiên Chúa đã tạo dựng thiên thần và loài người, dù Nguời thấy trước việc họ sẽ phản bội Người?
Loại câu hỏi này thừơng phát xuất từ tâm tình lệch lạc xót thương những kẻ bị phạt trầm luân, hoặc từ ý tưởng sai lầm về lòng nhân hậu của Thiên Chúa. Đối với những kẻ bị án phạt đời đời, họ không xứng đáng với bất cứ sự xót thương nào cả, bởi vô ích thôi: họ cứng cỏi trong ý muốn đồi bại đến độ chẳng muốn ăn năn sám hối, chẳng muốn thực lòng xin Chúa tha thứ, cũng như xin Chúa giúp họ thoát các hình phạt mà họ đã biết sẽ phải chịu mãi mãi. Không những họ bất xứng với lòng xót thương từ phía ta, mà chỉ xứng với hận thù, với chúc dữ, bởi họ trở nên kẻ thù đanh đá, không thể giao hòa cùng Thiên Chúa được nữa.
Để giải đáp vấn nạn, ta có thể nói khi Chúa tạo dựng thiên thần và loài người, Người không bao giờ muốn họ bị hủy diệt hay đau khổ; ý định của Người muốn họ thông dự vào thiện hảo phong nhiêu mà từ đó Người ban phát cho họ biết bao phước lộc, trên bình diện tự nhiên cũng như ân sủng, và như vậy, nếu tự họ muốn thì họ đã có thể đạt tới hạnh phúc bất diệt rồi. Vậy liệu lòng gian ác của tạo vật có thể buộc Thiên Chúa phải ngừng gia ân, không được rộng rãi? Trái lại, ta phải nhìn nhận Thiên Chúa vẫn luôn rạng rỡ tốt lành, vẫn không chối từ làm điều thiện hảo cho những kẻ đang ham làm điều thất đức. Ta thấy xác đáng lời thánh Augustin đã nói trên đây về lý do khiến Thiên Chúa cho phép tội lỗi xảy ra.
Đương nhiên, vốn toàn năng, Thiên Chúa hoàn toàn đã có thể ngăn chận tội lỗi xảy ra; nhưng chắc chắn Người chẳng bao giờ chịu thua ai về lòng xót thương nhân hậu, vốn lạ lùng và chẳng giống ai ! Mọi sự cần đựơc đánh giá trên sự tự do và độc lập vô song, cùng trên các phán quyết khôn dò của Thiên Chúa.
Vấn nạn khó hiểu thứ III: Tại sao Thiên Chúa vô cùng nhân hậu xót thương lại định ra hình phạt trầm luân?
Lời giải đáp từ nguyên tắc tổng quát sau: hình phạt đối với tội ác nào đó được cân nhắc tùy theo cách phạm đến phẩm giá của người bị xúc phạm. Ví dụ kẻ manh động đến đức vua hay thủ lãnh của mình, thì chắc chắn sẽ chịu hình phạt nặng hơn, sánh với khi xúc phạm đến một công dân bình thường. Vậy khi phạm nghiêm trọng chống lại quyền uy cao cả, vô biên của Thiên Chúa, con người hoặc thiên sứ tự mình đã phạm cách nặng đến Người, bởi qua đó họ đã xem thụ tạo như cứu cánh tối hậu: như vậy hành vi xứng hợp với hình phạt đời đời. Thế nhưng, tự thân thụ tạo là hạn định, do vậy không thể chịu đựng hình phạt đau khổ đời đời cách xứng hợp; từ lẽ đó tạo vật phải chịu hình phạt vô tận tính theo thời gian. Thánh Augustin nói: “Kẻ nào tự mình phế bỏ điều thiện vốn được dành để trở nên vĩnh cửu, thì xứng đáng phải chịu hình phạt vĩnh cửu”. (De Civ. Dei, lib. 21, c.12).
Thánh Grégoire viết: “Theo lẽ công bằng đích thật, quan tòa phải phán xử sao cho kẻ đã không bao giờ muốn tránh tội ác trên dương thế, thì sẽ không thể nào tránh được hình phạt mai hậu”. (Dialog., lib. 4, c. 44).
Luật lệ con người kết án những ai giết người hình phạt chung thân hay tử hình, và như vậy đưa kẻ ấy mãi mãi xa rời khỏi xã hội loài ngừơi; vậy thì chẳng nên ngạc nhiên việc luật lệ thiên giới phán quyết chống lại kẻ đã phạm tội nặng phải xa lìa đời đời khỏi thiên quốc và xã hội qui tụ các Thánh.
Vấn nạn thứ IV: Tại sao tội của một người đầu tiên đã có thể lây nhiễm sang mọi người khác?
Ta có thể trưng dẫn lời giải từ lời thánh Tôma: “Toàn bộ nhân loại, sinh ra từ Ađam, có thể được xem như chỉ một người duy nhất, bởi cùng một bản tính vốn được cha ông thông truyền cho. Cũng vậy, trên quan điểm xã hội, tất cả những ai thuộc về cùng một cộng đồng thì đều được xem như lập thành một thân mình duy nhất; và như vậy cả cộng đồng chỉ là như một con người duy nhất. Tương tự như thế, muôn vàn những cá thể hậu duệ của Ađam chỉ là vô số những chi thể của một thân mình duy nhất. Hành vi của một chi thể, của bàn tay chẳng hạn, mang tính chất hành vi hữu ý không phải từ ý chí của chính bàn tay, nhưng của linh hồn xui khiến bàn tay cử động. Kẻ sát nhân giết người bằng tay không cấu thành tội ác đựơc gán chỉ cho bàn tay mà thôi, bởi nó liên kết với một thân mình; rõ rệt nó cũng mang tội vì quả thật nó là chi thể của kẻ sát nhân”.
Ứng dụng: sự mất trật tự nơi con người là hậu duệ của Ađam, không là hữu ý bởi chính ý muốn của người ấy, nhưng thật ra là từ ý muốn người cha đầu tiên của người ấy. Lòng muốn này là động lực đầu tiên làm vận hành tất cả những kẻ phát xuất từ nguyên khởi này, cũng giống như ý chí của linh hồn làm phát khởi hành vi của mọi chi thể. Bởi đó mà có tội được truyền từ người cha đầu tiên của chúng ta cho con cháu, và tội này được gọi tội tổ tông, còn tội từ linh hồn đến các chi thể của thân mình được gọi là tội thực hữu, tội riêng.
Tội riêng do chi thể nào đó phạm chỉ là tội của chi thể theo nghĩa là một phần tử của con người (tội cá nhân), cũng vậy nguyên tội chỉ được gán cho cụ thể từng người vì người này vốn mang bản tính của người cha đầu tiên của mình; do vậy được gọi là tội truyền theo bản tính, như lời Thánh Phaolô viết cho các tín hữu Êphêsô: “Vì bản tính mà chúng ta đã trở nên những con cái của án phạt.” (Ep 2,3).
Vị thừa sai cần nêu ngay luật trừ mà Đức Maria được hưởng, như lời thánh Augustin: “khi nói về tội, cấp thiết phải chừa Đức Mẹ ra, bởi nếu không, ta sẽ xúc phạm đến Đức Kitô Giêsu”. (De Nat. et Gratia, c. 36).
Thật hữu ích thử đưa ra vài so sánh: một cây cho trái mà gốc rễ bị hư hỏng thì không thể cho những quả ngon ngọt đẹp đẽ được; từ nguồn nước ô nhiễm thì chỉ có được thứ nước bẩn mà thôi; kẻ quí tộc phạm tội khi quân thì bị tước hết từ tài sản, tước hiệu quí phái cha truyền con nối cùng các đặc ân; và con cái thì trở thành dân đen, nghèo túng, khốn khổ. Cũng vậy, là con cháu của Ađam đã phạm tội và đánh mất mọi ân sủng, chúng ta sinh ra đời trong nỗi khốn khổ và thiếu vắng mọi thứ ân huệ.
Người ta có thể chất vấn thêm: “Tại sao Thiên Chúa chỉ qui tội cho một mình Ađam mà thôi?” Ơn tinh tuyền từ lòng Chúa xót thương, cũng như ơn công chính nguyên thủy, vượt quá những đòi hỏi của bản tính con người; các điều kiện mà Thiên Chúa đưa ra tùy thuộc sở thích của Người, và các lý lẽ dù luôn khó nhận biết, nhưng luôn chính đáng và thánh thiện. Đàng khác các câu trả lời cho hai câu hỏi vừa rồi sẽ được triển khai đầy đủ, chi tiết trong phần phụ lục thứ hai do chúng tôi soạn thảo.
Vấn nạn sau cùng: Cách thức truyền nguyên tội cho hậu duệ ra sao?
Với Kitô hữu đặt câu hỏi này, ta có thể đáp như thánh Augustin: “Chỉ cần ta biết mình đã có thể được tẩy xóa khỏi tội tổ tông bằng cách thức nào rồi, cho dù không hiểu làm thế nào mà ta đã mắc phải thứ tội ấy” (Epist. 29 ad S. Hier.). Còn với lương dân, ta cần giải thích là tội này mắc phải là vì mối thông hiệp giữa linh hồn có trí khôn, được Thiên Chúa tạo dựng, với thân xác vốn từ Ađam mà có do đường truyền sinh thông thừơng. Hiệp nhất với thân xác, linh hồn là phần tử của con người vốn từ Ađam mà ra và đáng ra đã có thể nhận được, khi sinh ra, sự thánh thiện cùng sự công chính. Thiếu vắng hai phẩm tính trên, đó chính là hệ quả của việc lây nhiễm tội nguyên tổ. Thánh Anselme cũng nói y như vậy: “Khi đề cập đến nguyên tội, ngay nơi các cháu bé nhỏ, chính là sự thiếu vắng mà ta vừa đề cập, nghĩa là đáng lẽ con người cần có sự công chính, và thiếu sót này là hệ quả việc Ađam bất tuân phục Thiên Chúa và khiến chúng ta đều trở thành con cái của án phạt.” (De Concept. Virg., cap. 26)
Nếu Thiên Chúa chưa vội sai gởi xuống thế gian Người Con của mình là Đấng Cứu Thế đã hứa cho muôn dân, chính là vì Người muốn để nhân loại phải nhận ra sự yếu nhược của mình, phải tự thú nỗi bất lực cơ bản này hầu có thể làm điều thiện với ơn Chúa trợ giúp. Phải sống rên rỉ lâu dài dưới ách nô lệ tội lỗi, con người mới càng mong mỏi, khắc khoải chờ mong xin Đấng Giải Thoát mau đến cứu họ. Cũng vậy, trước khi giảng về Chúa Cứu Thế cho dự tòng, vị thừa sai nên từ tốn và trình bày kỹ lưỡng cho họ nhận ra tất cả những nỗi cùng cực cay đắng đang dày vò cuộc sống họ, lòng trí họ cứng cỏi cộng thêm sức công phá mãnh liệt của ma quỷ, để rồi họ sẽ chú ý đặc biệt mong mỏi, khi nghe giảng về Đấng Cứu Độ.
Xưa kia Đức Giêsu Kitô đã khuyến cáo các Tông đồ bằng những lời lẽ nặng nề về sự cứng lòng của họ, khuyên họ trước hết phải cầu xin tha thiết Thánh Linh đổ tràn đầy ánh sáng để họ có thể hiểu được sứ điệp giải thoát (Ga 16, 12.13). Vì thế vị thừa sai nên nấn ná kéo dài thêm ít lâu nữa sự chờ đợi của dự tòng, để họ có dịp thừa nhận sự yếu hèn của mình bằng việc gia tăng cầu nguuyện sốt sắng hơn nữa, xin ơn trợ giúp đến từ Chúa. Ngài lợi dụng những ngày đó để trao đổi thêm với họ về Đấng Thiên Chúa cao cả vô song, về sự bất lực của con người trong việc thấu hiểu tường tận sứ điệp của Chúa, về sự hạn chế của trí khôn ngay trong những biến cố đời thường mà còn khó hiểu, huống chi những sự thuộc về thiên giới. Ngài còn nêu lên sự cần thiết phải có đức tin vốn dĩ rất quan trọng cho con người, cho xã hội. Điểm này ngài nên đưa ra những ví dụ rất cụ thể mà ai cũng có thể hiểu được. Sau đó ngài cho thấy thực hành một hành vi đức tin, chính là hành động tôn vinh Thiên Chúa, làm đẹp lòng Người; và người đặt trí khôn mình dưới ánh sáng chân lý xác đáng của Chúa là người thu được bao mối lợi nhờ biết Chúa và các mầu nhiệm Người tỏ bày.
Khi vị thừa sai thấy rõ sự chú ý và lòng ham thích nghe nơi dự tòng, ngài đúc kết mấy điểm chính sau đây:
I. Mỗi tội năng luôn luôn tự nó là hành vi xúc phạm nặng nề đến sự tốt lành vô biên của Thiên Chúa.
II. Thật phải lẽ và công bình khi Chúa đòi buộc con người phải có hành vi đền bù trước khi được ơn giao hòa; họ cần quan tâm thực hiện cho thỏa đáng việc này. Chúa đòi buộc họ phải tỏ rõ sự quyết tâm để Ngừơi có thể dủ lòng thương xót họ.
III. Không người nào, không bậc thiên sứ nào, cho dù có nhận được ơn sủng lớn lao như thế nào, thì vẫn không thể đền bù cho Chúa cách xứng hợp được: tạo vật dù được ân sủng nâng cao vẫn là vật hữu hạn, và do vậy phẩm chất hành vi của họ vẫn là hữu hạn.
IV. Sau cùng, Thiên Chúa vì quá yêu thương loài người, Người đã nghĩ ra một phương thế tuyệt diệu để đền bù sự công chính, thay chỗ cho con người vốn bất lực. Đó là sự Nhập Thể của Ngôi Lời, vì nguời hiến lễ là Đấng mang phẩm tính vô biên, chính Người lại tự hiến làm của lễ cũng có giá trị vô biên.
Nhưng lương dân chưa thể nắm bắt được mầu nhiệm Nhập Thể của Chúa chúng ta, cũng như chưa thể quan niệm được thể nào là Con Thiên Chúa, nếu họ chưa được hiểu trước sự kiện Thiên Chúa có nhiều ngôi vị trong sự duy nhất bản thể Thiên Chúa; do vậy ngài lại phải trình bày mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Đối với vị thừa sai, đây là thời điểm ngài cần khiêm tốn, cần thinh lặng cầu nguyện với hết tâm tình, cầu xin Thiên Chúa từ trời cao đổ xuống niềm tin cho dự tòng.
Sự hiểu biết lẫn cách trình bày liên quan đến mầu nhiệm cực trọng này phải chạm đến những chiều sâu khôn dò: ta thiếu lời lẽ để giải thích, trí hiểu ta dường như đụng phải bức tường, do vậy phải cẩn trọng, đừng quá mạo hiểm với những gì quá mới lạ, mà chỉ nên trình bày niềm tin của ta cách chắc chắn vững chãi. Ngoài ra, vì những so sánh với đời thường đều có hiệu quả tốt, nhất là với những tâm trí đang còn đơn sơ. Ví dụ sự tương tự loại suy với linh hồn có trí khôn, với mặt trời, với nguồn nước. Những loại suy cho dẫu bất toàn, vẫn ít ra cho phép đưa ra một ý niệm nào đó về mầu nhiệm Ba Ngôi.
Vị thừa sai cần trước hết để ý khi nói về Chúa Cha, do dự tòng chưa thể có đủ trình độ để quan niệm đúng đắn về Thiên Chúa; về Chúa Con thì đừng bao giờ để họ lẫn lộn giữa việc Ngôi Lời được nhiệm sinh với cách sinh sản thông thường của loài người. Cũng đừng để họ rơi vào lầm lạc giữa việc Thiên Chúa có nhiều ngôi vị với thuyết đa thần bên ngoại giáo.
Nếu vị thừa sai cảm thấy cần nhấn mạnh thêm nữa về mầu nhiệm khôn dò này, ngài hãy trưng dẫn một vài thí dụ thông thường sao để họ hiểu về tín điều thâm sâu này; sau cùng để dự tòng chỉ khám phá ra đó là mầu nhiệm cao quí thuộc thượng giới, ngài cho thấy Chúa Cha sinh Chúa Con không giống như cách của thần thánh bên dân ngoại được sinh ra vốn là kết quả của việc ăn ở xác thịt.
Ngoài ra mối bận tâm chính của vị thừa sai là lợi dụng sự thán phục của dự tòng trước mầu nhiệm sâu thẳm về Chúa Trời Ba Ngôi để giúp họ thờ phượng và phục vụ Đức Chúa Trời với hết tâm tình, để rồi họ sẽ được tưởng thưởng một ngày kia trên thiên quốc, ở đó họ sẽ được thấu suốt hơn, vì hạnh phúc của họ chính là ơn hưởng kiến đời đời, chiêm ngưỡng mầu nhiệm thẳm sâu này.
Sau mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, vị thừa sai đề cập đến lịch sử Mầu Nhiệm Nhập Thể của Chúa chúng ta. Đây nữa phải cần nói trước hết về quyền năng tưởng như không thể tin nổi của tình yêu. Trong lịch sử, dựa vào nguồn sử liệu đáng tin cậy, đã có biết bao gương yêu thương đẹp đẽ, đáng khen, đáng trân trọng: cha mẹ thương yêu con cái, vợ với chồng, bạn hữu với nhau; tình thương mến mạnh mẽ này phát xuất từ chính nguồn cội, từ sự tốt lành nơi Thiên Chúa vốn là nguyên lý nguyên khởi của mọi thứ tình yêu. Người ta sẽ không còn phải phàn nàn gì được nữa bởi Thiên Chúa đã yêu thương loài người đến nỗi đã ban tặng cho họ người Con duy nhất và vị Chúa Trời ngôi Con này cũng dạt dào yêu thương đối với chúng ta, đã chấp nhận thân phận loài người ngõ hầu có thể đền bù thay thế cho ta đứng trước lẽ công chính của Thiên Chúa.
Khi tuyên xưng Ngôi Lời vô tạo làm người, ta cần gạt ngay ý nghĩ cho rằng tì vết hư hỏng của bản tính nhân loại có thể làm hoen ố bản tính thần linh. Thánh Athanase giải thích rõ ràng điều trên trong bản Biểu Tín của người: Thiên Chúa làm người, “không phải bằng cách biến đổi thần tính sang xác phàm của ta, nhưng chấp nhận mặc lấy nhân tính để có thể thần hóa nhân tính”, cho đến độ việc Thiên Chúa Làm Người là duy nhất không có sự pha trộn bản tính với nhau, nhưng bởi tính duy nhất trong một ngôi vị. Như ánh mặt trời khi chiếu rọi trên bùn đen vẫn giữ được nét rạng rỡ nguyên thủy, thì cũng vậy Mặt Trời công chính vĩnh cửu đã không mảy may suy giảm phẩm chất khi đã đi vào xác phàm, bởi không thể bị lây nhiễm.
Trong những ngày ấy, hầu như toàn thể vũ trụ bị nạn thờ ngẫu tượng chi phối, và nơi người Do thái, đạo giáo suy đồi đến độ họa hiếm mới thấy còn chỗ này chỗ kia bóng dáng người thờ phượng Thiên Chúa đích thực. Bấy giờ Đấng Thiên Sai, Đấng mà biết bao thiên sứ tiên báo, biết bao tổ phụ chờ mong; Người là Thiên Chúa thật, bởi là Con của Chúa Cha vĩnh hằng và cũng là người thật bởi là con của Trinh Nữ Maria. Được sinh ra từ cung lòng Đức Trinh Nữ, bởi muốn tránh bất kỳ tì vết nào có thể bôi đen nét rạng rỡ của sự sinh nở vô tiền khoáng hậu này. Đấng Cứu Độ ra đời không bởi tác động của người nam, nhưng Người đã được thụ thai bởi phép của Chúa Thánh Thần nơi máu huyết của Đức Trinh Nữ, vốn là mẹ mà vẫn còn đồng trinh, đây chính là dấu lạ mới mẻ nhằm mô tả tính chất kỳ diệu sự kiện Thiên Chúa được sinh ra.
Cũng cần kể chi tiết việc thiên sứ truyền tin cho Đức Maria và liệt kê các nhân đức tuyệt vời của Mẹ Thiên Chúa, nên ưu tiên nói đến nhân đức đẹp đẽ nhất đã tôn vinh sự khiết trinh của Mẹ, tôi muốn nói đến đức khiêm nhường khiến cho Mẹ vinh hạnh được chọn làm mẹ bởi Đấng mà Mẹ tự xưng là nữ tì khiêm cung.
Cũng phải nói đến phẩm tính tuyệt hảo mà linh hồn Đức Kitô được trang điểm ngay khi được tạo dựng, tâm hồn đó thường xuyên thấm đậm với nhãn quan trong sáng của Thiên Chúa, với ân sủng Chúa Thánh Thần, vượt trội rất xa về tính ưu việt trên mọi người và trên cả các thiên sứ.
Đến trần gian để chịu đau khổ, có lẽ Đấng Cứu Độ phải nhờ phép lạ nào đó để ngăn chặn những phẩm chất nơi linh hồn của Người vốn đã có ơn hưởng kiến, có thể chi phối trên thân xác Người. Hơn nữa, nung nấu ước muốn đem lại cho nhân loại ơn cứu chuộc, từ thời buổi ban đầu, vì chúng ta, Người đã tự hiến làm lễ vật hy sinh lên Chúa Cha và ngay từ lúc chào đời, Người đã tự ý muốn nếm trải tất cả nỗi cay đắng của chén phải uống trong cuộc thương khó Người.
Như vậy, Người đã sinh ra trong khó nghèo và tủi nhục, biết buồn sầu và đau khổ. Vì mọi người mà Người đã sinh ra để đem lại sự sáng và ơn cứu độ; Người biểu hiện sự tốt lành của ơn quan phòng Thiên Chúa và chỉ mong được cả người Do thái lẫn lương dân đón nhận. Người Do thái có thể nhận ra Người qua các hình bóng và các bóng che chở dân chúng thời Cựu Ước, qua các tiên báo của những ngôn sứ; còn lương dân có thể nhận ra Người qua một vài điềm báo ứng của họ, cũng như nhờ sự hiện diện thường xuyên của người Do thái, trong các cuộc lưu lạc trên toàn thế giới. Vì vậy mà khi Người ra đời thì “tiếng nói sự thật vang vọng đến tận cùng trái đất: người ta thấy muôn cơ binh thiên thần loan báo cho các mục đồng việc Đấng Cứu Thế được sinh hạ; trong khi các đạo sĩ, nhờ ánh sao dẫn đường, đã đến bái thờ Người. Từ phương Đông cho đến phương Tây, việc vị Vua Thật lâm bồn phải đánh thức mọi người trỗi dậy và đòi buộc mọi người phải có lòng tin, bởi các dân tộc Đông phương được thông tin qua môi miệng các đạo sĩ và cả đến đế quốc La mã cùng được thông báo” . Với lời lẽ trên của thánh Léon (Bài giảng thứ hai về sự Hiển linh), thánh Ambroise thêm: thế hệ thời Đức Giêu Kitô đón nhận chứng tá không những của các thiên sứ, của các ngôn sứ và các mục đồng mà thôi, mà còn của cả người xưa và các bậc công chính. Từng thời đại và từng giới người đã giúp lòng tin của chúng ta thêm kiên vững về những sự kiện lạ lùng đã xảy ra: trinh nữ mà sinh con, người đàn bà son sẻ lại mang thai, người câm nói được, bà Elisabeth nói tiên tri, các đạo sĩ đến thờ kính Hài Nhi, Gioan nhảy mừng trong lòng mẹ, bà góa nhận ra Đấng Cứu Độ, cụ già chính trực chờ đón Người tại Đền thờ (x. Lc 2).
Cũng cần đề cập đến các dấu lạ điềm thiêng theo sau việc Chúa Kitô sinh ra, ắp đầy tình thương và đáng cho ta kính nhớ. Rồi những gương nhân đức vừa lạ lùng vừa xuất chúng trải dài suốt cuộc sống dương thế của Người phải là những đề tài thảo luận tùy chỗ và tùy thời gian với anh chị em dự tòng, sao cho họ gia tăng lòng mến mà bắt chước, theo gương. Muốn vậy phải nên cẩn trọng theo sát những đề nghị mà chúng tôi sẽ đưa ra ở chương sau.
Khi nói về Chúa Kitô, mục tiêu vị thừa sai phải nhắm là giúp cho dự tòng thán phục và yêu mến Người hơn nữa. Thán phục quyền năng vô song, sự khôn ngoan thượng trí và sự thánh thiện toàn bích của Người; còn yêu mến vì Người đã chịu khổ đau, đã sống tốt lành quá đỗi, đã vì chúng ta mà hy sinh chịu đựng những dằn vặt, cực hình, những chuyện mà khiến con tim Người rướm máu. Nói làm sao cho đủ đây? Quyền uy thượng giới của Người biểu lộ khi Người đuổi cả đàn quỷ dữ ra khỏi xác thân những người bị quỷ ám, khi Người muốn tiếp xúc và thay đổi lòng trí con người, khi Người khống chế các yếu tố thiên nhiên và các tạo vật cứng đờ, bắt chúng phải theo lệnh Người tức khắc; khi chỉ bằng một lời nói, một hành vi thể hiện ý muốn, Người có thể chữa lành mọi thứ bệnh tật, và sau khi đã đưa nhiều người chết hoàn sinh, chính Người đã chiến thắng sự chết cách oanh liệt.
Sự khôn ngoan của Người làm ngạc nhiên nhiều tiến sĩ luật: năm mười hai tuổi Người đã trả lời suông sẻ những câu hỏi về những đoạn Thánh Kinh khó hiểu nhất. Giới biệt phái, nhóm Sađuxêô, phe Hêrôđê đã kinh ngạc trước những câu trả lời vừa xác đáng vừa tài tình đối với những câu hỏi đầy cạm bẫy mà họ đặt ra nhằm bắt bẻ Người. Đoán được ý định thầm kín của họ, Người khiến họ phải xấu hổ bằng cách khơi gợi ra những ý đồ, những âm mưu đen tối, bất nhân bất nghĩa của họ trước đám đông. Ai đã từng và sẽ đọc Tin Mừng chắc chắn sẽ ngạc nhiên như thế bởi những lý chứng Người nêu ra đầy ắp trí khôn ngoan sắc sảo. Còn về sự thánh thiện của Người? Chính Người thể hiện trong lời nói, trong giảng dạy, và còn trong cả các gương lành: Người trốn chạy khỏi những vinh dự dân chúng muốn dành cho Người, từ bỏ mọi thú vui giác quan; Người sống khó nghèo, ẩn dật và cần mẫn, kiên trì trong lao động và khổ nhọc để thực hiện trọn vẹn Ý của Chúa Cha vĩnh hằng, và cả cuộc đời của Người cho đến hơi thở cuối cùng là một hiến lễ nhằm tôn vinh Cha Người.
Những nhân đức mà Người đã thể hiện lôi kéo đám đông đi theo Người, lòng nhân ái dạt dào đối với mọi người khiến họ động lòng yêu mến, ngay cả đối với những kẻ vô cảm nhất. Dịu dàng với mọi người, và với các Tông đồ Người tỏ ra kiên nhẫn kỳ lạ, chịu đựng khi họ sỗ sàng, dốt nát, thiếu thanh lịch; còn trẻ em lại năng lui tới với Người, được Người vỗ về ôm hôn; Người thông cảm, sẵn sàng bênh vực tội nhân trước những người tố cáo họ, Người thân thiện đón tiếp khi họ đến với Người; Người còn quan tâm đi tìm họ, y như người mục tử tốt đi tìm chiên lạc, tìm được thì để nó trên vai và vui vẻ cõng về chuồng; tính kiên nhẫn như thế khiến người biệt phái phải ghen tức; đôi khi Người chậm trả lời đối với những kẻ tố cáo: câm lặng như con chiên tiến bước trước người thợ xén lông; với thái độ đó, Người đã âm thầm đối diện với cái chết.
Tìm đâu ra những lời lẽ để diễn tả đúng mực tình yêu vô biên của Người: vì ta Người sinh ra; vì ta Người đã sống, vì ta Người đã trãi những đêm dài cầu nguyện và nhiều ngày chay tịnh; vì ta Người chủ ý đối đầu với bao hiểm nguy; để cứu ta, trên thập giá Người đã đổ những giọt máu cuối cùng và Người ban tặng cho ta chính sự sống của Người làm giá trao đổi lấy sự cứu rỗi đời đời cho ta.
Ý thức của dân ngoại là sống cốt để tìm danh vọng, của cải và các thú vui giác quan; do vậy khi đề cập đến cuộc sống khó nghèo ẩn dật và đau khổ của Chúa, vị thừa sai cần gắng miêu tả Người sinh ra lạnh lẽo tím bầm nằm trong máng cỏ giữa đêm đông, rồi bị vua Hêrôđê rượt đuổi, và chỉ thoát thân nhờ đi trốn, rồi về sống ẩn dật suốt 30 năm trường trong căn nhà tồi tàn của bác thợ mộc, âm thầm kiếm sống. Ngài cần cho thấy tại sao, với mục đích gì mà vị Thiên Chúa lại chọn cho mình một cuộc sống lạ lùng đến như vậy. Từ bỏ như thế, Chúa chỉ nhằm đền bù thay thế bằng cách thỏa mãn sự công bằng của Thiên Chúa, cho tất cả những tội nhân vốn đáng chịu mọi hình phạt; hơn nữa chính khi sống khinh miệt những của cải, Người muốn thuyết phục ta về sự chóng qua, tính hay hư nát của đời này, và Người muốn ta so sánh chúng với những thiện hảo bền vững mà lòng trí ta phải hướng đến.
Về cuộc thương khó của Chúa, việc bị treo trên thập giá với những đau đớn dữ dội, vị thừa sai cần chứng tỏ chính Chúa đã tự mình chịu đau khổ, ngỏ hầu gia tăng niềm vinh quang vốn chỉ thuộc về Thiên Chúa, Người muốn cho ma quỷ, kẻ tử thù lui bước, Người vạch trần những tội ác tày trời của chúng và muốn cho nhân loại trở lại với nguồn suối vô tận của ân sủng nơi phát xuất ra những điều lành.
Rõ ràng Đấng Cứu Thế không phải đau khổ vì gượng ép. Người tự ý, Người chủ động. Xem kìa biết bao những toan tính mà người Do thái muốn làm cho Người chết trước thời hạn. Chính Người đã chủ động tiên báo trước cái chết từ rất lâu và thường xuyên tỏ bày điều đó cho các Tông đồ, thậm chí ngay cả tiết lộ danh tánh của kẻ sẽ phản nghịch Ngài. Giờ đã tới, Người đối diện với những kẻ hiềm thù, và với lời phán ra, Người khiến chúng bị xô ngã, và chỉ bị phó nộp khi Người cho phép điều đó xảy ra; chủ ý tự mình đi tới cái chết, Người đã không muốn cho người khác chống trả lại; sau cùng, lúc sinh thì trên thập giá, Người phó linh hồn cho Chúa Cha, và như thế Người đã chết hoàn toàn thong dong tự chọn.
Vị thừa sai còn cần nói thêm rất nhiều dấu lạ cả thể đã xảy ra khi Chúa sinh thì: mặt trời trở nên tăm tối, đất rung chuyển, núi đá vỡ ra, kẻ chết hoàn sinh, và những lý hình đã đóng đinh Người thì đấm ngực ăn năn đến nỗi phải thốt lên: “Người này thật là Con Thiên Chúa” (Mt 27, 54).
Luôn luôn khi Chúa báo cho các Tông đồ cuộc khổ nạn và cái chết thì Người thêm ngay rằng Người sẽ sống lại vào ngày thứ ba. Do vậy, vị thừa sai cũng không được quên nói đến cuộc phục sinh vinh hiển của Người sau khi nói về cuộc thương khó.
Đức Giêsu Kitô không những là Đấng Cứu Độ nhân loại mà thôi, Người là Vua và là Người làm luật. Vậy cần cho người dự tòng biết tường tận những huấn lệnh mà Chúa đã đề xướng, mà họ cần phải giữ để đáng hưởng niềm hạnh phúc bất diệt mà chính Đấng Cứu Thế đã phải trả giá bằng máu Người. Thế nên, vị thừa sai cần am hiểu bằng nỗ lực học tập lề luật đạo Chúa mà lề luật Chúa Giêsu đã bổ túc và hoàn thiện thêm. Thánh Tôma (1, 2, q.106, a.1) chứng minh lề luật Tin Mừng chính là ân sủng Chúa Thánh Thần đổ xuống trong lòng các tín hữu; dầu vậy, lề luật cũng bao hàm những điều khác nữa: có những chỉ dụ bằng truyền miệng, có những cái bằng văn bản, bởi các chân lý này có sự nối kết chặt chẽ với ân sủng từ đó có lề luật viết. Đức tin và đức cậy khai mở linh hồn đến với ân sủng, các việc bác ái ghi dấu ấn thể hiện hai nhân đức trên; hy tế và các bí tích là những phương thế đạt tới ân sủng và sự thánh thiện. Nhận định như trên thì giáo lý về lề luật Tin mừng có thể qui về năm điểm chính.
Trước hết về đức tin, những chân lý phải tin được hàm chứa trong Bản Biểu Tín của các thánh Tông đồ, còn các điều khác do truyền thống truyền lại. Điểm thứ hai, đức cậy có đối tượng được diễn đạt trong cầu nguyện suy gẫm ngày Chúa Nhật. Điểm thứ ba, các chỉ thị luân lý mà nguồn gốc chính là từ Bản Mười Điều Răn, ngoài ra ta có thể thêm các lời khuyên Phúc Âm. Điểm thứ tư, hiến tế không đổ máu của Mình và Máu của Đức Giêsu Kitô. Và sau cùng điểm thứ năm, các Bí tích.
Khi xem xét kỹ càng năm điều trên, ta nhận ra phẩm tính hoàn thiện đã tỏ lộ, vì lề luật đạo cũ vốn đã được ban cho cha ông và được truyền cho hậu duệ thì đã được luật Tin Mừng đem đến chỗ hoàn thiện, viên mãn.
I. Về các nhân đức đối thần, xét về đối tượng mà luật Tin Mừng đề nghị, hoặc xét về các lý do được cân nhắc, để nhờ đó mà ta có cảm hứng mà đem ra thực hành, bởi sự cao siêu thượng trí và không cần phải thêm bớt chi nữa. Lề luật Tin Mừng đem lại biết bao ánh sáng soi chiếu cho đời ta hiểu biết về Thiên Chúa và những gì liên quan đến Người, mà trước đây tri thức về Người vốn rất mù mờ và thiếu sót! Luật Tin Mừng đã ban cho trí khôn nhận biết những dữ kiện minh bạch và chính xác khiến cho lòng muốn nơi ta được khích lệ, liệu ai có thể cung cấp cho ta những lý do để tin tưởng mạnh mẽ hơn những điều mà luật Tin Mừng đã đề nghị? Từng điều khoản của lòng tin đặt cơ sở vững chắc trên chính chứng tá minh nhiên của Hội thánh, ta không thể nghi ngờ, bởi dường như Thiên Chúa vừa mặc khải cho chính ta vậy.
II. Đối tượng của đức cậy, một nhân đức đối thần nữa, chính là hạnh phúc vĩnh cửu. Tin mừng nói về điều ấy với thứ ngôn ngữ cao vời, trong sáng; việc ta chiếm hữu hạnh phúc đó là ngay khi ta chết, hoàn toàn khác với trước ngày Đấng Cứu Độ chưa đến, lúc ấy tổ tiên, các tổ phụ đã phải khắc khỏai trông chờ. Viễn tượng đó khiến lòng trí ta hân hoan, được cuốn hút mãnh liệt, ngay cả giác quan ta cũng cảm nghiệm được ảnh hưởng này. Tin Mừng đề nghị ta hãy sống bắt chước các gương lành của các thánh, vốn đủ mạnh mẽ để giúp ta đừng quan tâm đến những của cải dễ hư nát trần thế mà nên gắn bó hơn với những điều thiện hảo thiên quốc; những lời hứa hẹn của Chúa Kitô qua sự chết và sự khẩn cầu của Người chắc chắn sẽ tác động mãnh liệt trên mọi người nhất là trong việc vực dậy lòng trí của những kẻ khiếp nhược, dễ nản lòng.
III. Cũng lề luật Tin Mừng nâng lòng mến của ta lên tầm vóc cao rộng hơn, khiến ta hứng khởi chiêm ngắm mầu nhiệm Chúa Trời Ba Ngôi, để thấy Chúa Cha thương yêu ta đến độ ban tặng Người Con độc nhất của Người, Chúa Con tự ban hiến cuộc sống vì phần rỗi linh hồn ta, Chúa Thánh Thần ngự xuống nơi lòng trí ta để thánh hóa, cho ta thông hưởng kho báu tốt lành của Người, làm cho ta trở nên con cái Thiên Chúa và thừa tự Nước trời. Tình yêu vốn đòi buộc phải được thể hiện bằng việc làm, do vậy để giúp ta yêu mến Chúa hơn, luật Tin Mừng nhắc nhớ ta những lề luật Thiên Chúa đã ban mà do thói quen phạm tội làm ta quên mất, rồi còn thêm những lời khuyên sống đời trọn hảo cao siêu hơn nữa, và nhất là khích lệ ta hãy đem ra thực hành kèm với lời hứa về các phần thưởng sẽ ban tặng cho tất cả những ai yêu mến Chúa. Lề luật làm cho ta thấy nơi Đức Kitô chịu đóng đinh như mẫu gương yêu thương, để ta quên mình, mời gọi ta từ bỏ mọi sự để ước ao vác thánh giá và đón nhận phúc vinh tử đạo. Lề luật Tin Mừng gợi ra cả ngàn cách giúp ta biểu lộ tình yêu đó với Thiên Chúa, trong đó chỉ có cách thức yêu mến thật, chính là yêu mến Người không cần đắn đo, tính toán.
IV. Hy tế trong thánh lễ tạ ơn được dâng lên mỗi ngày và hầu như từng giờ trong ngày sống trên khắp địa cầu. Liệu ai có thể nghĩ ra cách thờ phượng Thiên Chúa nào khác, làm vui lòng Chúa và sinh ích cho con người hơn là hy tế cực trọng này? Chính Đức Kitô thay cho chúng ta mà thờ phượng Thiên Chúa, nhờ sự tự hiến mà Người có thể làm nguôi cơn giận của Thiên Chúa và đền bù tội lỗi của ta, dâng lời cảm tạ về tất cả những sự tốt lành mà ta đã lãnh nhận, và không ngừng khẩn khoản cầu thay nguyện giúp cho chúng ta có được những điều thiện hảo mới mẻ nữa.
V. Dưới chế độ lề luật tự nhiên cũng như lề luật chữ viết, thì vẫn có những bí tích được lập ra để thánh hóa loài người; tuy nhiên đó chỉ là các dấu chỉ của ân sủng, vốn vẫn còn thô ráp và nghèo nàn, để diễn tả theo lối của thánh Phaolô (Gl 4,9), tự mình chúng không thể kéo ân sủng xuống được, như thánh Tôma cho biết trong (P. 3 q. 72 a.5, ad. 3; q. 62, a.6., ad.3), trái lại, các bí tích dưới chế độ lề luật Tin Mừng do Chúa Kitô thiết lập ngoài việc mang ý nghĩa ân sủng được ban cho ta, còn có khả năng tạo ra ân sủng nữa. Các bí tích như là những máng thông ơn mà ơn thánh hóa không ngừng tuôn chảy: tín hữu gặp gỡ nơi các bí tích như là nguyên lý, sự bảo tồn, sự gia tăng thêm nữa và sự hoàn thành cuộc sống thiêng liêng của mình.
Với sự hoàn thiện mà Chúa Kitô là tác giả và là đấng kiện toàn mang lại, lề luật là bản tóm lược giáo lý Kitô giáo, của lề luật tu trì. Vị thừa sai dễ dàng rút tỉa từ đó để làm các đề tài giảng thuyết đạo đức hoặc suy niệm, giúp đào tạo dự tòng lãnh nhận Phép rửa, đàng khác cũng giúp cho họ vốn đang trên đường theo Chúa được lòng mộ mến, kết hợp với Chúa vẹn toàn hơn. Thận trọng, từ tốn ngài sẽ liệu giảng dạy sao cho phù hợp với trí khôn từng người, cùng thích hợp với hoàn cảnh cụ thể. Giờ đây, ngài có thể lặp lại cho dự tòng những bài huấn dụ trên kia ở phần cuối của tiết hai trong chương này, về lòng đạo đức, tính khiết tịnh và sự công bằng. Ngài kín múc tình yêu từ Đấng cứu độ vì ta, từ các chỉ thị thánh thiêng, từ các mẫu gương sống động, từ những lý chứng, để giúp họ thêm sức mạnh mà ao ước điều lành; như thế nhờ những bước đi nhẹ nhàng nhưng chắc chắn, vị thừa sai sẽ làm cho họ sống đời hạnh kiểm tốt đẹp hơn.
Đoạn vị thừa sai giải thích Bản Tín Biểu của các Tông đồ. Thánh Augustin gọi cách xác đáng là bản qui luật của đức tin, ngắn gọn mà súc tích; ngắn gọn nhờ công thức lời văn, và súc tích do chứa đựng toàn bộ giáo lý quan trọng. Tín Biểu này khởi nguồn từ mười hai vị thánh tông đồ, xác định rõ các điều phải tin, người tuân giữ thì sống trong sự thật công giáo, và ngay cả có thể chứng minh để phản bác lại lạc giáo. Vị thừa sai truyền cho dự tòng phải học thuộc lòng, luôn luôn suy niệm để hiểu rõ hơn ý nghĩa thâm sâu của từng mầu nhiệm hàm chứa trong đó. Ngài cũng cho họ biết dấu hiệu đặc biệt của các chiến binh Đức Kitô, là dấu Thánh Giá vốn đem lại cho họ sức mạnh hiệu quả chống lại ma quỉ. Ngài khuyên họ hãy năng làm dấu thánh giá với lòng tin tưởng, ở nơi công cộng, và trước khi làm bất cứ điều gì. Họ phải tìm thấy niềm vinh hạnh khi làm dấu thánh giá như cách diễn tả sau đây của bài hát phụng vụ: “Về phần ta, ta có vinh quang nhờ thập giá của Đức Giêsu Chúa chúng ta, nơi Người là ơn cứu độ, sức sống, sự phục sinh của ta; nhờ Chúa ta được cứu độ, nhờ Chúa ta được giải thoát” (Fer, V in Coena Domini, ad Introit, Missae).
Rồi ngài diễn giải ngắn gọn về các bí tích; nhưng về Phép rửa ngài cần tách ra để nói kỹ hơn về sự cần thiết, giá trị thật và các lợi ích thiêng liêng mà bí tích này mang lại. Đây là cách làm hâm nóng nơi dự tòng lòng ước ao sống động, chân thành, mong sớm đến ngày lãnh nhận. Phần giải thích tiếp theo về Phép rửa cũng như mối liên kết của Phép rửa với các bí tích khác sẽ được nêu ra lúc nào thuận tiện hơn sau này.
Ngoài những người mà vẻ tốt đẹp của đạo Kitô đã lôi kéo đến với đức tin, thì không phải hiếm có những người bị khựng lại bởi một nỗi chán chường nào đó: ánh sáng lề luật Thiên Chúa chiếu tỏ ở đâu đó trước khi soi lòng mở trí cho họ. Do vậy họ cho rằng ánh sáng đó không cần thiết lắm. Họ lý luận luật Thiên Chúa mà các ông rao giảng là thật sự cần thiết cho phần rỗi đời đời cho mọi người và từng người; nếu thiếu nó không thể có ơn cứu rỗi. Nếu vậy, dường như Chúa đã không thể tiên liệu trước và bỏ bê chúng tôi, bởi Người đã quá chậm trễ để nay mới thương tình nghĩ đến chúng tôi. Phải nói thêm là Ngài đã thiếu lòng khoan dung xót thương, bởi Người đã để cho tổ tiên chúng tôi sống thiếu vắng sự thiện hảo thiết yếu và từ đó các ngài bị án phạt trầm luân. Vị thừa sai cần nỗ lực hết sức để phản bác mãnh liệt cách lập luận của họ như trên. Ngài cho thấy trong lãnh vực cai trị phần đời, họ có thể thấy cảnh tượng rõ rệt biểu lộ Thiên Chúa quan tâm trù liệu sao cho con người có thể nhận ra lề luật của Người; các vua chúa cách tổng quát cũng phổ biến luật lệ của họ trong vương quốc họ cai trị; còn Thiên Chúa ra luật cho cả vua chúa lẫn người thứ dân đều buộc phải giữ.
Bất cứ người bán khai nào, cho dẫu đang sinh sống nơi núi xa rừng thẳm, vẫn đều hiểu phải thờ phượng và phục vụ Thiên Chúa duy nhất, Đấng tạo dựng mình, bởi là việc chính đáng và phải lẽ: không được phép nói dối, thề vặt, không được trộm cắp, giết người, không được làm hại người khác, không được vi phạm luật khiết tịnh và các khoản luật khác tương tự vốn tất cả đều được hàm chứa trong lề luật tự nhiên của Thiên Chúa. Kỳ diệu thay việc mọi kẻ sống trên dương thế này, cho dẫu phong tục tập quán có khác biệt nhau, nhưng đều đồng thuận từng chi tiết về các nguyên tắc và chỉ thị nói trên. Chính Thiên Chúa đấng tạo dựng muôn loài đã đặt sự thông hiểu này vào trong nội tâm thẳm sâu của từng người, và để ghi nhận ân huệ nơi lòng trí của họ, dường như thể Thiên Chúa đã ghi khắc đậm những lề luật này nơi trái tim họ, nơi có những bản luật thật sự sống động, còn đậm nét hơn là những bản bằng đồng hay bằng vàng, do các vua chúa, am tường và làm luật, đã cho thực hiện.
Mười Điều Răn chứa đựng các nguyên tắc và tạo nền tảng cho đạo. Ai mộ mến gắn bó và mang ra thực hành, theo như thánh Tôma, thì chắc chắn được “Thiên Chúa, nguồn sáng cho mọi kẻ có mặt trên dương thế này, biểu lộ cho họ biết qua mặc khải nội tâm, những gì buộc phải tin, hoặc là Người sai gửi những sứ giả đức tin nào đó đến để giải thích như đã làm cho vị hoạn quan, cho Cornêliô và cho nhiều người khác nữa” (in 2 dist 25. P. 2, et in 4, de verita.a. II ad I).
Khốn thay lại có nhiều kẻ qua lối sống của mình đã ngăn chặn lại hiệu quả của ánh sáng lề luật Thiên Chúa và dập tắt bằng các tội ác của họ. Bài học thứ nhất mà lý trí dạy bảo lại bị phế bỏ, do vậy, bởi chính lỗi họ nên không thể đạt tới sự thông hiểu sâu xa lề luật của Thiên Chúa và các mầu nhiệm đức tin. Nếu họ phải chịu án phạt trầm luân thì cũng đáng thôi, do đã vi phạm các mệnh lệnh tự nhiên đã có, chứ đừng cho là do mình đã không được thông tri… Họ bịt mắt trí khôn trước các ánh quang đức tin muốn soi tỏ cho họ, và qua sự cứng lòng, họ bịt miệng Thiên Chúa vốn bắt đầu muốn dạy bảo họ.
Thật sự Thiên Chúa đã làm mọi cách để cho người ta thông biết luật lệ thánh thiện của Người, Người đã hành xử y như cách một ông thầy đối với học trò: khi học trò đã nỗ lực học biết những giáo huấn tiên khởi của thầy mình, và khi đã thông thì lập tức ông thầy đào sâu giáo huấn cho tới khi học trò đạt tới tầm cao của môn học. Còn trái lại, nếu học trò khinh chê ông thầy và xem thường các bài học đầu tiên, thì dầu muốn dầu không, ông thầy phải ngưng ngay tức khắc việc dạy dỗ, ai mà rỗi hơi lại tiếp tục truyền thụ những điều khó khăn hơn nữa cho học trò vốn đã coi thường bước đầu !
Còn những người, vốn tự mình chẳng có công trạng gì, lại được diễm phúc đón tiếp các vị rao giảng Tin Mừng, họ cần cảm tạ Thiên Chúa luôn mãi, bởi Người quan phòng đã điều khiển bước chân của các ngài. Dự tòng không nên ngạc nhiên thêm nữa nếu tổ tiên đã bị xét xử có lỗi vì đã cố tình vi phạm lề luật Thiên Chúa mà ít ra nhờ ánh sáng lý trí tự nhiên họ phải nhận ra.
Thánh Tôma, trong chuyên luận chống lại lương dân (Lib. I c.9) vạch ra hai mục tiêu mà vị sứ giả Tin Mừng cần theo đuổi khi huấn giáo: trước hết phải bài bác các sai lầm của địch thủ và sau đó bảo vệ luận đề đức tin. Còn thánh Phêrô nói: “Ta phải sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng nơi ta” (1 Pr 3,15). Người rao giảng cần minh chứng các mầu nhiệm đức tin bằng các lý lẽ chứng minh để có thể dẫn đưa mọi người đến chỗ đồng thuận. Để bài bác sai lầm của dân ngoại, vẫn chưa đủ nếu sử dụng các nền móng của đạo cũ, được vạch ra chứ chưa được thiết chế, cũng chưa đủ nếu mới cho biết nhiệm cục của lề luật Tin Mừng và phương pháp cần theo trong giảng huấn; mà cần cho người ta chấp nhận các lý chứng mạnh mẽ xác đáng để họ tin và gắn chặt vào các tín điều cao cả. Ánh sáng tự nhiên của lý trí con người không thể đạt tới các tín điều này, vì trí khôn quá thấp kém đứng trước vẽ uy nghi rạng rỡ của Thiên Chúa.
Người đã có những chuẩn bị tốt thì đơn giản mới nghe trình bày lề luật Tin Mừng cũng đủ cho đương sự chấp nhận, bởi giá trị tự nó của lề luật. Dầu vậy, cho lương dân đón nhận lề luật, ta phải dùng lại các phương thế mà Chúa Giêsu đã dùng. Vị thừa sai muốn chứng minh nguồn gốc thần thiêng và chân lý nơi đạo Kitô cần được trang bị bằng hai loại lý chứng, có loại được rút tỉa từ bản chất thâm sâu, có loại từ bên ngoài. Đức tin bám rễ nơi đất cứng cáp, do vậy ít lo sợ các cơn cám dỗ khiến cho dự tòng nghi ngại. Nhưng đối với người có học hoặc đã thâm hiểu triết lý, họ sẽ sàng lọc mọi điều tin tưởng với trí khôn, thì vị thưà sai cần phải sử dụng các lý chứng. Sau đây là các lý chứng chính.
Về những điều chúng tôi đã nói trước đây hiển nhiên, trong cốt lõi của đạo, có quan niệm cao cả về Thiên Chúa, như Đấng Hằng Hữu vô song, vô tỳ tích, vượt xa trí khôn con người, được xưng tụng là sự Thiện tuyệt hảo, là nguồn cội mọi sự thiện hảo khác của thế giới tự nhiên, của chế độ ân sủng và vinh quang. Đạo có nhiệm vụ đề nghị việc tôn thờ Thiên Chúa, trong nội tâm cũng như bên ngoài, ở lãnh vực tư cũng như công; giảng dạy cách xác tín và minh bạch mục đích Thiên Chúa đã tạo dựng vũ trụ; chỉ cho con người biết sự thiẹn hảo cao trọng cùng những phương thế đạt tới đó. Đạo cũng cho biết Thiên Chúa đã không tạo ra tội lỗi, chính tạo vật mới mang trách nhiệm về tội, bởi họ đã phạm tội vì họ có tự do, tự quyết. Huấn giáo của đạo không có điều gì đi ngược với lý trí, và từng điểm đều mang hương thơm đạo đức, thánh thiện. Đạo dẫn đưa tín hữu đến sự hoàn thiện, đề ra những phương thế trong tầm tay để họ dễ dàng sử dụng hầu chế ngự đam mê tật xấu, đạt tới sự công chính và nhận lại ân sủng mà họ đánh mất.
Những nhiệm vụ trên đây đạo Kitô đã vinh dự thực hiện trong ánh sáng chân lý rạng rỡ. Điều này rõ nét hơn khi so sánh đạo với các thứ giáo phái, bên ngoại giáo, vốn hay câm lặng hoặc chỉ đưa ra được những giải thích bất hợp lý.
Có nhiều lý chứng khác, dẫu ngoại diện, thế nhưng cũng chứng minh khá hùng hồn cho chân lý lề luật Tin Mừng; với ai có trí khôn các lý chứng này không thể bẻ bác được, diễn tả niềm xác tín lề luật ấy đến từ Thiên Chúa. Và Đấng vốn là tác giả và Đấng hoàn thiện là Đức Giêsu Kitô, là sự khôn ngoan thượng trí của Thiên Chúa. Chính Người là hiện thân của thánh thiện và chân lý. Đã lâu, đạo đã được các thánh tiên tri loan báo. Thiên Chúa đã nâng đỡ cho đạo phát triển bằng rất nhiều điềm thiêng dấu lạ, và mặc dầu gặp nhiều cơn bách hại dữ dội từ phía người Do thái và dân ngoại, đạo vẫn đứng vững và không ngừng lớn mạnh. Để làm chứng cho đạo, hàng ngũ đông đảo các chứng nhân từ trẻ đến già, nam có nữ có, từ phận hèn cho đến quyền quý, tất cả đều biểu lộ gương anh dũng, không sợ sệt sự chết. Phần đông các lý hình sau khi đã hành hạ đích đáng, rồi hành hình các ngài, dẫu vậy, họ đã phải làm chứng về lòng thánh thiện nguyên tuyền của chư vị ấy. Còn đám đông dân chúng, được thần hứng từ trời cao, lòng xôn xao thương cảm cho thân phận các vị anh hùng ấy; những nhân vật uyên bác, tài năng tự bẩm sinh đã nhiệt thành xin theo đạo.
Cùng chung ý nghĩ, Richard de St Victor đã đưa ra những nhận định như sau: “Nếu đã là tín hữu đích thật, thì điều chắc chắn và không có gì lay đổi được, chính là đức tin đã dạy cho ta. Tôi muốn đề cập ở đây về sự chú tâm của người Do thái cũng như của lương dân: lương tâm của họ có thể hoàn toàn an nhiên, và dưới góc độ này chẳng thấy ai phải sợ hãi sự phán xử của Thiên Chúa; còn ta, có lẽ ta cần thưa với Chúa với trọn tin yêu: Lạy Chúa, nếu có lầm lạc nào đó, phải chăng nó đến từ Chúa?” ( De Trinit. Lib. I, Cap.2).
Các lý chứng có giá trị để đánh động lương dân, nhưng vị thừa sai chớ nên nhẹ dạ cả tin họ sẽ sớm thay lòng để vào đạo ngay, bởi đức tin là công trình thực hiện của một mình Thiên Chúa mà thôi. Lúc giải thích Tin Mừng, vị thừa sai sẽ đăt trọn niềm tin vào ân sủng của Đức Giêsu, Chúa chúng ta, ngài sẽ trình bày Tin Mừng với tâm tình đơn sơ, nhưng đầy xác tín để nhận đủ khả năng từ trời cao mà lay động các tâm hồn, dẫn đến những điều kỳ diệu, bởi ơn Chúa vẫn không ngừng tác động mọi sự.
Ngoài ra còn có những người học rộng mà chỉ những lý chứng và lý trí mới cảm hoá được họ, thì vị thừa sai bằng các lý chứng đã được đề cập để họ nhận ra luật Tin mừng là đáng tin, dầu vậy điều đó vẫn chứa đủ để làm họ trở nên môn đồ đích thật của Đức Kitô, ngay chính ma quỷ cũng biết làm phép lạ để người ta phải đầu hàng, run sợ mà đi theo nó. Còn các dự tòng phải ra sức cầu nguyên gẫm suy, xin Thiên Chúa ban thêm đức tin. Còn đối với những người lòng dạ đơn giản chân thành, ngài cũng không quên buộc họ phải cầu xin ơn đức tin; ngài trình bày các lý chứng dưới dạng kể chuyện, trưng dẫn các thánh tích. Thật ra những người này không có khả năng để cân nhắc, so đo các lý chứng. Nhưng đến lúc nào đó, lòng ngay sẽ lên tiếng, hay nói đúng hơn Thiên Chúa sẽ soi lòng mở trí cho họ, và họ sẽ nhớ lại các điều đã nghe, để rồi sau đó sự hiểu biết về đạo sẽ trở nên chắc chắn lạ thường, và từ đó họ hết dạ yêu mến luật Tin mừng với lòng kính trọng.
Có những người nghiền ngẫm các lý chứng trong cuộc kiếm tìm sự thật về đạo. Cùng với những người tập tễnh vào đạo, vị thừa sai giúp họ rút các lý chứng từ cái cốt lõi của đạo, rồi đến lý chứng ngoại diện, đoạn cũng không quên mô tả cách thức lạ lùng Thiên Chúa đã sử dụng để phổ biến lề luật Tin Mừng. Thật vậy, Tin Mừng được một nhóm nhỏ các tông đồ loan báo, vốn là những người ít học, danh giá vọng tộc chẳng có. Phần lớn chân lý các ngài rao giảng lại khó hiểu, vượt quá tầm nắm bắt của người bình thường; hơn nữa lại có chân lý phải chạm trán nảy lữa với các ý tưởng đang thịnh hành lúc ấy, cũng như với những khuynh hướng tự nhiên của người đương thời. Các tông đồ làm cho người ta trở về với đức tin, không phải vì họ kỳ vọng vào mối lợi nhất thời nào đó, nhưng duy chỉ vì các lời hứa vào những sự thiện hảo vĩnh cữu và vô hình mà thôi. Sau cùng đã có biết bao vị khôn ngoan, các đại gia giàu có, quyền quý, tất cả đã bỏ cả tài sản, cha mẹ, quê hương nữa, để tin theo đạo sau khi nghe các Tông đồ rao giảng. Nếu các nhà thừa sai đều giống các Tông đồ, thì việc đưa ra các chứng cứ để thuyết phục lương dân sẽ mạnh mẽ biết bao?. Dầu vậy, để lay động mạnh trên người nghe, việc trưng dẫn những người nổi tiếng cho dẫu có hùng hồn, vẫn chưa phải là lý chứng có giá trị nhất. Vị thừa sai cần lựa lọc kỹ càng các gương sáng và phân tích những hoàn cảnh đặc thù, hai việc nêu trên sẽ có giá trị nơi lương dân và ngay cả nơi những kẻ lạc giáo, bởi những người lạc giáo vẫn tự hào là phía họ cũng có những người được phúc tử vì đạo nữa. Nên trưng dẫn các gương sáng, nêu bật được các nét về giới tính, tuổi tác hoặc điều kiện sinh sống của các vị tử đạo. Họ kiên trì anh dũng, nhẫn nại lạ lùng, hoàn toàn phó thác vào ý Thiên Chúa; nêu ra các dấu lạ điềm thiêng xảy ra trước hay sau cái chết của các vị: ơn trở lại tức thì của những người chứng kiến, hoặc của lý hình, hoặc của bạo chúa, vốn có thể được cảm phục trước lòng quả cảm kiên trì của chư vị ấy trước mọi thứ tra tấn man rợ. Những hoàn cảnh, chi tiết như thế không thể nào có nơi cảnh chết của những người lạc giáo hay của lương dân.
Các vị thừa sai cần khai thác lề luật của đạo thật từ cội nguồn tuyệt vời của Hội thánh, hiền thê của Chúa Giêsu. Các ngài nhận năng quyền rao giảng từ Giáo hội, là bà mẹ chung của mọi tín hữu. Rồi các ngài cũng có nhiệm vụ phải dạy dỗ, củng cố lòng tin cho tín hữu biết đâu là Hội thánh chân thật, một khi nổi lên các mối nghi ngờ. Các ngài cũng phải có mối quan tâm mục vụ để giảng giải về nguồn gốc của Hội thánh, quyền uy Giáo hội từ đâu mà có, các tính chất và sắc thái mà qua đó người ta nhận ra Hội thánh chân thật. Phải xác tín là, giữa những người đã vào đạo, thì phải có sự nối kết họ lại với nhau, chặt chẽ nơi một thân mình duy nhất dưới hình thức một xã hội hữu hình trong đó có người chỉ huy và có người vâng phục. Người có trách nhiệm làm luật phải liệu sao khi đưa ra các khoản luật cần chặt chẽ xứng hợp từ lúc công bố, giải thích và khi buộc tuân thủ. Thiên Chúa đã chăm chút cẩn thận mỗi khi thấy cần phải đưa ra các luật lệ viết, còn hơn thế nữa, đối với các luật lệ dưới chế độ ân sủng còn đòi buộc phải kỹ càng hơn, bởi chúng minh nhiên đề nghị cho lòng tin nhiều điều khoản, nhiều mầu nhiệm cao cả hơn nữa.
Vậy các tín hữu đã có một xã hội hoàn chỉnh, là Giáo hội được định nghĩa như là tổ chức tập hợp mọi tín hữu cùng tuyên xưng một niềm tin đạo Kitô, làm thành một thân thể duy nhất, cùng sữ dụng các bí tích dưới sự điều khiển của các chủ chăn hợp pháp, đứng đầu là Đức Giáo Hoàng là đại diện duy nhất của Đức Giêsu Kitô trên trái đất.
Định nghĩa trên không bao hàm điều nội tại sinh ích cho linh hồn, nhưng chỉ như một lời tuyên xưng bên ngoài của đạo để được thuộc về Hội thánh. Tuy nhiên, theo kiểu nói của thánh Augustin, có thể quan niệm Giáo hội là một cơ thể mà linh hồn là những ơn trọng của Thánh Thần, gồm niềm tin, sự trông cậy và đức ái, thân thể đó được cấu thành nhờ lời tuyên tín bên ngoài và sự tham dự các bí tích. Do vậy, ai đã thuộc về thân thể là Hội thánh, thì đều liên kết với Đức Giêsu Kitô, thủ lãnh Hội thánh, họ tin nhận ảnh hưởng thiêng liêng của Giáo hội và vâng phục Đức Thánh Cha là đại diện của Chúa mang trách nhiệm điều khiển Hội thánh. Họ thuộc về Giáo hội cách trọn vẹn và được xem như là các chi thể sống động của Hội thánh; có những kẻ thuộc về linh hồn mà thôi, mà không thuộc về thân thể Hội thánh, đó là trường hợp của các dự tòng và những người bị dứt phép thông công, miễn là họ còn đức tin và đức ái; rồi có những kẻ chỉ thuộc về thân thể Hội thánh, là trường hợp của những ai cho dù không có niềm tin, nhưng vẫn tuyên xưng đức tin trên, bằng các hành vi bên ngoài và chịu các bí tích từ tay các chủ chăn hợp pháp, có thể ví họ giống như tóc, móng tay hoặc các tính khí xấu xa hiện có trong thân thể. Sau cùng còn có những kẻ không thuộc cả thân thể lẫn linh hồn Hội thánh như dân ngoại, người Do thái, người Hồi giáo, người Lạc và Ly giáo và những kẻ bỏ đạo.
Hội thánh này được chính Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa (Ga 19,34) thiết lập. Chính Đấng Cứu Chuộc đã lấy Giáo hội làm tân nương của mình ( Hs 2,19; Ep 5,23-28) và như chúng ta đã nói, vị tân nương của Đức Kitô trở thành mẹ của tín hữu, người mẹ luôn phong nhiêu đông đúc con cái và thường xuyên nhờ Ngôi Lời tác động, không ngừng hạ sinh thêm nữa cho Thiên Chúa những người con thiêng liêng, những kẻ thừa kế Nước Trời trong tương lai (Gl 4, 30.31), nhưng Giáo hội không chỉ là mẹ của tín hữu mà còn là vú mẫu và người coi sóc, dưỡng dục. Mọi Kitô hữu đều dưới sự chở che bảo ban của Hội thánh. Vị tân lang thần thánh đã lập Giáo hội như một cột trụ vững chắc và là nền tảng của chân lý (1 Tm 3,15). Người đã tuyên bố nơi Hội thánh sẽ không bao giờ thiếu đức tin (Lc 22,32) và cửa hoả ngục không thể nào khống chế được (Mt 16,18). Đức Giêsu đã sai gởi Thánh Thần luôn ở mãi với Hội thánh (Ga 14,16) để cai quản, nâng đỡ, dạy bảo và an ủi Hội thánh. Thánh Thần còn luôn thổi bừng lên ngọn lửa nhiệt thành, đầy ắp sức mạnh để Hội thánh có thể tiến hành mọi việc cũng như sẵn sàng chịu mọi đau khổ, mọi nỗi khó khăn để tôn vinh Thiên Chúa. Từ môi miệng Đức Giêsu, Người đã hứa sẽ ở mãi mãi cùng Hội thánh cho đến tận thế (Mt 28,20).
Sự khôn ngoan Thiên Chúa hằng soi dẫn để Hôi thánh công bố các lề luật, các dấu chỉ đặc trưng, để qua đó Giáo hội có thể tỏ hiện và phân biệt dễ dàng khỏi những giáo phái giả hiệu, để rồi bất cứ người bình thường nào cũng có thể nhận ra là Giáo hội thật của Thiên Chúa.
Trên thực tế ta có thể nêu ra các dấu hiệu đặc trưng của Hội thánh Đức Giêsu Kitô từ chính yếu tính của đạo: tính duy nhất, tính thánh thiện, tính phổ quát và tính tông truyền. Những dấu chứng rõ rệt cho thấy Giáo hội được Thiên Chúa thiết lập, mọi người nghe lời và tuân giữ các luật lệ, quy định của Hội thánh. Trên đây là những nét chính được Kinh Thánh đề cập đến và qua đó con người có thể nhận ra Giáo hội và quả thật, những nét đặc trưng trên được các anh em Chính thống nhìn nhận, rồi cả một số anh em không chính thống cũng công nhận sau thời các Giáo phụ Công đồng Nicée.
Giáo hội là tập hợp nhiều người cụ thể, hữu hình, nhạy cảm. Chính khía cạnh nhạy cảm này lôi kéo sự chú ý.
I. Qua tính duy nhất mọi người là thành viên của Giáo hội tuyên xưng cùng một niềm tin, tham dự cũng cùng các bí tích và thông dự sự cai quản duy nhất của các thừa tác viên hợp pháp được lập, dưới quyền một thủ lãnh là Đức Giáo Hoàng.
II. Tính thánh thiện thể hiện sự thánh thiện trong các lễ nghi, trong luật lệ, trong các tổ chức cơ chế, hoàn toàn phù hợp với lý trí con người và của Thiên Chúa. Giáo hội mang trong mình các phương thế để đạt tới sự thánh thiện, để duy trì và gia tăng thêm, và có thể chiếm hữu lại được sự thánh thiện sau thời gian bị mất. Sau cùng sự thánh thiện này không chỉ là bên ngoài, mà còn là căn nguyên của đạo đức bên trong, ví dụ như sự khiết tịnh và tính khiêm tốn có nơi giáo sĩ và tu sĩ.
III. Qua phổ quát tính, Giáo hội vượt mọi biên cương, lãnh thổ, mọi dân tộc; Giáo hội qua đức ái của mình bao hàm tất cả mọi người từ bán khai hoặc văn minh, nô lệ hay tự do, đàn ông hoặc đàn bà, và từ Đông sang Tây, dưới ánh sáng không bao giờ tàn lụi của cùng một niềm tin, Giáo hội vẫn bành trướng và không ngừng lan rộng mọi nơi mọi chốn.
IV. Sau cùng tính truyền thống, hay tính tông truyền của Hội thánh, nghĩa là Hội thánh được thành lập từ thời các thánh Tông đồ, và từ ngày thành lập đến nay, Giáo hội luôn thừa hưởng sự thừa kế liên tục các giám mục tiếp nối nhau.
Các dữ kiện trên được am tường rồi thì phải nhận ra Hội thánh Rôma lan rộng trên khắp mặt đất phải là Giáo hội duy nhất và đích thật của Thiên Chúa. Thánh Phêrô đã thiết lập Tòa thánh tại Rôma; trung thành gìn giữ truyền thống các tông đồ, Rôma là mẹ của mọi Giáo hội khác. Do vậy bất cứ giám mục, bất cứ Giáo hội riêng rẽ nào cũng đều phải thông hiệp toàn vẹn với Rôma.
Nếu nơi Rôma, bốn đặc tính hay dấu hiệu đặc trưng kể trên biểu thị hiển nhiên Hội thánh đích thật, thì các Giáo hội địa phương lan rộng khắp trái đất, cũng đều phải đồng diễn tả bốn nét đặc trưng kể trên.
Thứ nhất, tất cả các Giáo hội địa phương đều lập thành một Giáo hội duy nhất với Rôma, bởi cùng tuyên xưng một niềm tin và liên kết với Rôma nhờ lãnh nhận cùng chung các bí tích và tuân phục các chủ chăn do Rôma thiết lập.
Thứ hai, các sắc lệnh do Giáo hội Rôma công bố nhằm vạch ra đường lối phải theo cho giáo sĩ và giáo dân chỉ chứa đựng những gì thánh thiêng. Hội thánh đề nghị các phương thế tốt nhất để tiến tới và phát triển nhân đức. Giáo lý Hội thánh thì tinh tuyền. Giữa lòng Giáo hội trung ương và địa phương, tập thể các linh mục, tu sĩ, hoặc các trinh nữ sống đời thánh hiến cho Thiên Chúa, quả thật đang sống tại dương thế cuộc đời thánh thiện sánh ví như trên thiên quốc vậy.
Sau cùng, các giáo hội khác chỉ giữ được danh xưng Công giáo và Tông truyền bao lâu họ vẫn còn thuộc về và là thành viên sống động của Giáo hội Rôma vốn từ ngày thành lập đến nay vẫn lan rộng tới tận các vùng rộng lớn, các nơi xa xôi nhất, được Thánh Phêrô định vị, rồi tồn tại qua chuỗi tiếp nối liên tục các Đức Giáo Hoàng, trong khi phần lớn các chỗ khác, ngay cả những nơi đã được các Thánh Tông đồ khác thành lập, thì nay đã bị tàn lụi cách oan uổng. Giáo hội đã thực hiện liên tục sự lan rộng như trên, cho dẫu có bị nhiều quốc trưởng, Dân ngoại, bên Lạc hay Ly giáo tấn công tới tấp, ngay cả sử dụng bạo lực trong các cuộc bách hại.
Đức tin của chúng ta nhận ra Hội thánh của Thiên Chúa nhờ Bản Tín Biểu của các Tông đồ, bằng mắt phàm và bằng trí khôn, tương tự như khi xưa, nhờ đức tin mà tín hữu đã nhận ra Đức Giêsu là Thiên Chúa, Người, và nay là Giáo hội, đã trở nên hữu hình, vì và cho mọi người. Do vậy, vị thừa sai bắt đầu trình bày Giáo hội cho dự tòng như một điều phải tin mạnh mẽ như mọi tín điều khác. Rồi giải thích cho họ ý nghĩa danh xưng Hội thánh theo ý của Đức Giêsu và các Tông đồ, cùng các phẩm tính hoặc sắc thái đặc trưng khiến người ta dễ nhận ra Giáo hội, đặc biệt sự thánh thiện và tính phổ quát của Hội thánh Chúa.
Cần lưu ý để họ đánh giá sự thánh thiện của Hội thánh không phải dựa trên lối sống của tín hữu nói chung hay của các vị có chức thánh, mà chỉ nên dựa vào hạnh kiểm sống của những ai tự điều chỉnh đời sống mình theo các lời khuyên Tin Mừng. Cần tìm sự thánh thiện của Hội thánh qua các luật lệ, các chỉ thị và nơi các phương thế đạt tới đó mà không mắc sai lầm.
Đến việc chứng minh tính phổ quát của Giáo hội, vị thừa sai sẽ nêu bật rõ ràng ý nghĩa của khái niệm: Giáo hội do được Thiên Chúa thiết lập, thì đương nhiên mọi người phải nghe lời và vâng phục. Thật vậy, Hội thánh được sinh động nhờ Thiên Chúa, cho nên dù không được bên ngoài hỗ trợ, lại vượt trên trí khôn con người và trật tự tự nhiên, để xuất hiện trên sóng nước cực kỳ bất ổn ở thế gian này, gặp biết bao chống đối, hiềm thù, thế nhưng Giáo hội vẫn tiếp tục lan rộng và hiện diện khắp nơi.
Rồi vị thừa sai cho thấy Giáo hội Rôma là hữu hình, tỏ hiện dưới mắt của tín hữu đã đành mà còn của cả lương dân nữa. Chỉ nơi Giáo hội này mới có được những nét đặc trưng rạng rỡ cho thấy đó là Giáo hội đích thật.
Vị thừa sai lập tức rút ra kết luận: chỉ một mình Giáo hội mới xứng hợp với mọi phẩm tính và sáng kiến mà Chúa Kitô muốn trang điểm cho chính Hiền thê của mình. Mọi người cần yêu mến Hội thánh như người mẹ yêu dấu của mình. Nếu người nào từ chối nhận Giáo hội làm mẹ, thì không thể có Thiên Chúa là cha của mình đựơc.
Cánh cửa độc nhất để có thể bước vào Giáo hội, đó là Bí tích Thanh tẩy. Trước hết phải từ bỏ ma quỉ, thế gian, xác thịt, rồi hối nhân tuyên tín dựa trên các tín điều được đề nghị, và qua tuyên hứa, đương sự hứa tuân giữ các giới răn của Thiên Chúa và của Giáo hội. Nếu trung thành giữ được các điều trên cho tới khi chết, thì hầu chắc đương sự sẽ chiếm hữu được điều thiện hảo; còn trái lại, nếu đương sự từ chối tin vào một khoản tín điều nào đó, hoặc không chịu tuân giữ giới răn nào đó, thì cho dầu trước mặt người đời không có điều gì đáng chê trách, nhưng trước khi chết mà không kịp ăn năn, hối lỗi, đương sự hầu như chẳng thoát khỏi thân phận vốn dành cho những kẻ sống giả hình.
Không phải là chuyện vô bổ để giải thích chút ít ở đây công việc cai quản Giáo hội hoặc xã hội đạo Kitô. Kiến thức sẽ giúp nắm bắt về điểm giáo lý đã được trình bày trên đây, về bản tính của Giáo hội chân thật, đồng thời giúp cho các vị thừa sai biết vâng phục các đấng bề trên, theo lệnh truyền của Chúa chúng ta và vạch ra cho các thừa sai cách thức cai quản dân chúng được giao phó.
Đức tin công giáo buộc phải tin Đức Giêsu Kitô là thủ lãnh tối cao của Giáo hội, dẫu bây giờ Người đang ngự trên trời. Người cũng là Chủ Chăn vốn trong suốt cuộc sống dương thế đã điều khiển Giáo hội bằng hai cách: nhờ ảnh hưởng tinh thần, nội tâm dưới dạng ân sủng và các nhân đức (Ga 1,16 và Ep 4,7) và qua các phương thế hữu hình (Ep 5,23) từ các lời dạy dỗ, la mắng, sửa trị của Người. Rồi đến lúc sắp trở về cùng Chúa Cha, Người muốn hoàn hảo hóa cách thức quản trị Vương quốc của Người tại trần gian, Người bèn lập Phêrô, thủ lãnh các Tông đồ như người đại diện của mình, ban cho ông toàn quyền trên Hội thánh (Ga 21,18) về phương diện cai quản bên ngoài; còn chính Đức Giêsu, Người không ngừng cai quản Giáo hội bằng ảnh hưởng ân sủng trên các tâm hồn (Mt 28,20).
Đức giáo hoàng, kế vị thánh Phêrô, vì việc cai quản Hội thánh, cho nên cũng được ban cho đầy đủ uy quyền, y hệt như Phêrô lúc sinh thời. Trên tảng đá vững chãi đó, Đức Kitô đã lập Giáo hội của Người (Mt 16,18) và trao cho Phêrô chìa khoá Nước Trời (Mt 16,19); Người đã ra lệnh cho ông phải chăn các chiên con và chiên mẹ (Ga 21,15-18), và Người đã muốn nhờ ông mà đức tin của anh em ông được thêm kiên vững, sau khi đã cầu nguyện xin Chúa Cha đừng bao giờ để Phêrô mất lòng tin (Lc 22,32). Những nhiệm vụ trên, ngày nay, thánh Phêrô không thể thực hiện được nữa từ chính bản thân mình, mà thiết yếu từ các vị kế nghiệp ngài, và qua các vị này các Giáo phụ đều xác nhận là thánh Phêrô vẫn tiếp tục trị vì nơi ngai thủ lãnh. Cách thức cai quản như trên mà Chúa đã lập ngay từ buổi đầu của Hội thánh, đã không bao giờ bị thay đổi. Đàng khác, quyền hành tối cao Chúa trao cho Phêrô, thật ra vì ích lợi cho những người dưới quyền của Phêrô hơn là cho chính ông; vậy phải nói Phêrô nhận quyền hành từ Đức Kitô để trao lại cho những người kế vị của ông. Nếu không như trên thì Kitô giáo sẽ không thể là một xã hội hoàn hảo, và do thiếu tổ chức, Giáo hội sẽ thiếu vững bền.
Để thêm xác tín về chân lý không thể nghi ngờ trên, ta có thể trưng dẫn cả sự đồng thuận của toàn thể Hội thánh, các chứng tá rõ rệt của các Đức Thánh Cha trị vì tiếp nối nhau từ ngày Giáo hội khai sinh cho đến hôm nay, và lẫn của các Công đồng. Nhưng do phạm vi hạn hẹp của tác phẩm này không cho phép, chúng tôi xin các vị thừa sai hãy tham khảo sách Giáo lý Rôma, nơi phần bàn về vấn đề này.(Part. I, in 4 in explic., art. 9, cap. 15)
Trên thực tế, chẳng có ai tranh chấp quyền hành với Đức giáo hoàng, trừ các địch thủ cố hữu như các người Ly giáo và Lạc giáo, mà chúng ta không muốn quan tâm đến các chứng từ của họ liên quan đến lãnh vực này...
Tuy nhiên nên tìm hiểu cặn kẽ về hệ thống tổ chức giáo sĩ. Đức Giêsu đã chọn mười hai Tông đồ và một số các môn đồ, và Ngừơi đã sai họ đi rao giảng và làm Phép Rửa khi Người còn ở dương thế. Rồi sau khi Người về trời và sau khi Chúa Thánh Thần đã hiện xuống trên họ, vâng lệnh truyền họ đã đi phổ biến Tin Mừng tại Giêrusalem và các miền xứ Giuđêa. Cũng vậy Chúa cũng muốn các Giám mục, kế vị các Tông đồ, và các linh mục và các vị có chức thánh khác, đại diện các môn đồ, cai quản và mở rộng Hội thánh, thuộc quyền cai quản của Đức Thánh Cha, hoàn toàn hiệp nhất trong cùng một niềm tin, cùng rao giảng một giáo lý duy nhất với ngài.
Với sự khôn ngoan Chúa ban, các Đức Giáo Hoàng không ngừng quan tâm, coi sóc cả một tổ chức bao gồm các loại chức thánh và tước vị phẩm trật: dưới Đức Thánh Cha là hàng giám mục mà phẩm trật lại được phân bố tùy theo phẩm hàm, tước vị và quyền tài thẩm. Có vị là Thượng phụ, có vị đứng đầu hàng giám mục quốc gia, những vị khác là Tổng Giám Mục hay chỉ là Giám mục bình thường. Mỗi vị Giám mục nắm quyền hành quan trọng hơn kém tùy theo tước vị, mang trách nhiệm chăm sóc đàn chiên được trao phó mà người là chủ chăn, người bảo vệ, hướng dẫn. Linh mục đoàn, nghĩa là số các linh mục thuộc quyền của ngài. Trong số các vị linh mục, nổi bật một số vị là thành viên của một nhà thờ lớn nào đó, được lập thành đoàn kinh sĩ, được Giám mục sở tại yêu cầu góp ý cho ngài về tất cả những vấn đề quản trị nghiêm trọng phải giải quyết ngay. Trường hợp giáo đoàn trống tòa, các kinh sĩ sẽ hành xử quyền tài thẩm Giám mục cho đến khi Đức Giáo Hoàng bổ nhiệm vị Giám mục mới.
Còn các vị linh mục khác thuộc các giáo đoàn địa phương, có vị đứng đầu mang danh cha sở, những vị khác làm phụ tá. Ngoài Đức Thánh Cha, có Hồng Y Đoàn trợ giúp Đức Giáo Hoàng trong việc cai quản Hội thánh hoàn vũ; trừ trường hợp khẩn thiết nghiêm trọng, các Hồng Y không rời khỏi ngai tòa Giám mục riêng của Đức Giáo Hoàng, nghĩa là thành Rôma, hầu cho mọi ngừơi từ khắp nơi có thể liên hệ với các ngài cách dễ dàng. Để giải quyết các vụ việc quan trọng, các ngài đựơc sự trợ giúp sẵn sàng từ các bộ óc lỗi lạc giữa các vị tiến sĩ và từ các nhân vật danh giá qua các phẩm tước cao quý được khoác vào. Sau khi đã xem xét và tranh luận cặn kẽ vấn đề, các ngài cung cấp cho Đức Giáo Hoàng bản tường trình để ngài quyết định dứt khoát. Nhưng còn việc này quan trọng hơn nữa, tùy theo tính nghiêm trọng của những vấn đề phải giải quyết, các ngài còn phải triệu tập các Giám mục của tỉnh, của quốc gia hay của toàn thể Hội thánh tại các Công đồng giáo tỉnh, quốc gia hoặc Công đồng chung.
Sau cùng nhằm hỗ trợ cho các nhu cầu khác nhau của các giáo đoàn vốn đã lan rộng và ở xa, người ta đã quen gởi tới các nứơc sở tại, những vị Giám mục, những Đại diện tông tòa, những Sứ thần, những Giám quản tông tòa và các chức sắc khác, các ngài mang trọng trách phục vụ các lợi ích đức tin của những nơi đựơc gởi tới.
Vắn tắt nói về cách điều hành Hội thánh như trên, cho dù bản phác họa có sơ sài, tuy nhiên hàm chứa được mọi yếu tố cần và đủ cho bất cứ quan sát viên nghiêm túc, để nhận định là không thể có nhà, thành phố, vương quốc hay đại hùng binh nào, để dùng chính những hạn từ so sánh của Chúa Thánh Thần, không nơi nào trên thế gian này có thể được lập, được tổ chức, sắp xếp hài hòa, chắc chắn, ổn định và vững bền đến như vậy được.
Vị thừa sai cần xem vị thế hiện tại của mình trong tổ chức điều hành giáo sĩ, xem ai là bề trên, xem ai là thuộc quyền mình; xem đâu là sự phụ thuộc phải vâng lời của mình vào bề trên và đâu là uy quyền mình có thể hành xử đối với thuộc hạ, bởi vị thừa sai không được vượt quá quyền hạn cho phép, cũng như phải luôn luôn kính trọng đấng bậc bề trên.
Để rao giảng, vị thừa sai kín múc từ nguồn giáo lý nguyên tuyền của Hội thánh Rôma. Qua lời nói và gương lành, ngài rao giảng sự vâng phục với các giới răn của Thiên Chúa và của Giáo hội.
Nơi con chiên mình coi sóc, ngài luôn nhắn nhủ họ phải kính trọng và yêu mến các chủ chăn, nhất là với Đức Thánh Cha, vị cha chung của mọi tín hữu và là chủ chăn hoàn vũ, ngài đứng đầu cai quản toàn thể Hội thánh. Vị thừa sai cần nêu gương trước trong hành vi kính trọng và yêu mến Đức Thánh Cha.
Đàng khác, tùy lúc thuận tiện – và chẳng thiếu dịp đâu – khi phải đề cập đến cách điều hành trong Hội thánh. Ngài nên để ý tránh dùng các từ như “Vương quốc”, “cai trị”, vì sợ dễ gây ra ghen tuông cho những kẻ có ác ý muốn chống lại Hội thánh, hoặc dễ gây ra mối nghi kỵ, ngờ vực nơi các quan lại, vua chúa, như thể Hội thánh muốn trở thành một vương quốc trần tục, xưng hùng xưng bá để thống trị khắp nơi ! Trái lại, vị thừa sai cần dùng tài hùng biện của mình để chứng minh sự khác biệt lớn lao giữa những vương quốc dễ mai một trên thế gian này với tổ chức Giáo hội vốn hướng tới sự cảm hóa tinh thần. Thật thích hợp ở đây để lặp lại lời của thánh Augustin khi nói về Đức Giêsu Kitô, thủ lãnh tối cao của Hội thánh: “Người vốn là Vua vũ trụ, bộ còn có vinh dự lớn hơn cho Người khi làm Vua loài ngừơi sao? Đức Kitô không làm vua Israel để được cống nộp, cũng như chính Người sẽ cung cấp mọi vũ khí cho họ triệt hạ quân thù.
Không ! Người làm Vua Israel là để cai quản các tâm hồn, chăm sóc các mối lợi vĩnh cửu của họ, dẫn đến Nước Trời mọi kẻ có lòng tin, niềm hy vọng và đức ái”. (Tract. 50 in Joan. in fine)
Theo luật siêu nhiên, Bí tích Thanh tẩy phải được chuẩn bị trước. Như vậy, chỉ những dự tòng đã được khảo hạch từ lâu và học hỏi kỹ lưỡng; Giáo hội đã coi trọng những quyết định dứt khoát này. Công Đồng Constantinô đã tuyên bố (Can.7): “Sự học hỏi hay dạy giáo lý và sự coi sóc mà chúng ta làm được sẽ nối dài mối quan hệ của họ với Giáo hội”. Clément de Rome đưa ra một thí nghiệm trong vòng 3 tháng (Apud Bucar. Lib. 4, cap. 15); nhiều người khác thì thời hạn bất định. Giáo Hoàng Sirice với 40 ngày (S. Siric. Pap. Epist. Ad Simeon. Tarrac. Episc.); và chính trong 40 ngày là khoảng thời gian để học hỏi giáo lý mà các Thánh Giáo Phụ Grégoire I, Gérome II, và Cyrille de Jérusalem III đã ấn định.
Không nơi nào mà Giáo hội lại không yêu thương, chăm sóc, dạy dỗ để chuẩn bị cho dự tòng: trong suốt cả mùa chay, họ phải chịu những thử thách; cũng cố họ bằng việc đặt tay, làm Dấu Thánh Giá; bổ sức bằng cách trừ quỷ; tập cho họ ăn chay, cầu nguyện; huấn luyện bằng cách giải thích đức tin Kitô giáo. Phong tục này được trưng dẫn nơi tác giả Tertulien (phần Thanh tẩy), S. Léon I (Aux Évêques de Sicile), le Pape Sirice (à l’Évêque de Tarrag), và những nhân vật khác nữa.
Công đồng Carthag thứ IV (Can.85), nêu: “những ai chuẩn bị Thanh tẩy sẽ cho đi tên của họ, kèm theo việc kiêng rượu và kiêng thịt và sau khi chịu nghi thức đặt tay và những kỳ khảo sát liên tục sẽ lãnh nhận Bí tích Thanh tẩy”.
Thật vậy, với sự khuyến dụ đạo đức và không thể thiếu được theo cách làm của các vị thừa sai Ấn độ như: tiếp đón, thăm dò ý muốn của họ và sau một hay hai lần hướng dẫn sẽ ban Bí tích Thanh tẩy. Việc vội vàng để có được số đông người rửa tội, không chuyên tâm để dạy dỗ, coi sóc cẩu thả, tính cả tin thái quá khi chọn lựa giữa họ, hối hả ban Bí tích Thanh tẩy cho họ. Đây đúng là khó khăn đặt ra cho họ. Và chúng ta có lẽ không biết nhận định như thế nào là có hại đối với định chế khắt khe và phù hợp với đức tin và thật sai lầm to lớn khi điều đó hợp với danh xưng Kitô hữu. Kinh nghiệm cho thấy không có Kitô hữu nào xấu hơn những người lãnh nhận Bí tích Thanh tẩy mà không trang bị đủ: sự vội vàng ghi danh tên vào danh sách của những người Kitô giáo. Nhưng cứ sự thường thì để có được tự do hợp pháp đào tẩu. Người ta cũng thấy họ có thói quen vừa đi nhà thờ vừa đi đến các đền thần, và điều đáng buồn hơn nữa đó là họ còn tệ hơn những người lãnh nhận Bí tích Thanh tẩy trước họ, và họ không chịu đựng nổi ngay cả một chút hối cải.
Kết luận gì nơi thực tế? Ngày nay những Linh mục có nhiệm vụ coi sóc để nhận định mức độ học hỏi của dự tòng và những điều kiện cần thiết khác kể cả thời gian dạy giáo lý để trao ban Bí tích Thanh tẩy.
Ta đồng ý, nhưng dường như đúng và chắc chắn hơn theo ý kiến của các Giáo phụ và của Công đồng rằng không rút gọn thời gian 40 ngày và chỉ ban phép Thanh tẩy cho những người đã học hỏi trong vòng 40 ngày trước.
Ta biết khá rõ kinh nghiệm ở đây thì phù hợp với luật Hội thánh, đôi khi còn kéo dài thời gian nữa để có được sự bền chí trong đức tin Kitô giáo. Như vậy, đó là vấn đề nhận thức để gìn giữ giữa những người tuyên xưng đức tin: những người có một cuộc sống đáng biểu dương và những người có vẻ tỏ ra ngoan ngoãn và đạo đức. Những người này không phải vượt qua thời gian kể trên mà đôi khi còn rút ngắn nữa. Tuy nhiên, với điều kiện họ đã được học hỏi trước ở một mức độ nào đó và điều ngoại lệ rất hiếm đó là sự khẩn thiết.
Sự bổ khuyết cho những phần tử cục mịch, tinh thần mê muội và chậm chạp, những người nô lệ, những người dường như muốn chụp lấy đức tin để thoát khỏi hình phạt thời gian; số khác thì hy vọng trục lợi hay tìm một hậu thuẫn nào đó về sau; có người lại biểu hiện dấu hiệu cả tin và nhục chí.
Giáo lý Rôma đề nghị ban Bí tích Thanh tẩy trong khoảng thời gian nào cho người lớn tuổi: “Sự chậm trễ của những người này không có gì bất lợi so với những đứa trẻ. Bởi vì đối với những người có trí khôn thì sự ao ước nhận lãnh cùng với sự thống hối cuộc sống đã qua, có thể đủ để lãnh nhận ân sủng và sự hiển thánh trong trường hợp tai nạn bất ngờ xảy ra trong khi chưa kịp lãnh nhận Bí tích. Ngược lại thời gian này dường như có một vài lợi ích: Trước hết, Giáo hội phải đề phòng một cách nghiêm túc để chặn đứng tất cả sự giả dối, thiếu xác tín khi lãnh nhận Bí tích Thanh tẩy và Giáo hội có thể bằng việc tra khảo kỹ càng của mình biết rõ ý định của người muốn lãnh nhận Bí tích. Và như thế họ mới thấu đáo được những bài học về giáo lý đức tin mà chính họ phải loan truyền và sống nhân chứng. Ngoài ra, người ta kính trọng thể Bí tích này chỉ trong những ngày đã ấn định như ngày lễ Phục Sinh và ngày lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống thật lộng lẫy và trang trọng”. S. Tôma (trong “
Bao nhiêu có thể các nhà thừa sai phải tự trau dồi giáo lý và bổn phận này không được thoái thác cho những người khác, như là điều đó không xứng đáng với họ và nâng giá trị Thầy giảng. Nếu các Thầy giảng này giới thiệu những dự tòng để lãnh nhận Bí tích Thanh tẩy thì ít ra các nhà thừa sai không phải buộc họ thi cử trước khi nhận lãnh Bí tích.
Nguy hiểm trước hết phải chú ý đó là chạy theo số lượng người hơn là chất lượng đào tạo và tính thống nhất của việc giáo dục tân tòng.
Tóm lại, có hai điều thái quá nên tránh: một mặt, phê phán lòng nhiệt thành quá mức và ước muốn quá mãnh liệt nơi dự tòng; Nhưng mặt khác cũng cảnh báo một cách nghiêm túc rằng phải học hỏi đầy đủ thời gian qui định và cũng không phải cứ kéo rê thời gian. Có lời chép: “lập tức đi theo Người và đừng trì hoãn” (Gv 5,8). Mà sự hoán cải hoàn hảo nhất chỉ có ở nơi sự tái sinh qua Bí tích Thanh tẩy. Như vậy, sẵn sàng trì hoãn lãnh nhận Bí tích Thanh tẩy tức là thờ ơ với bao niềm hoan lạc thiện hảo mà hoa trái dồi dào phát sinh từ đó và được hưởng dùng các ơn ích nơi các Bí tích khác.
Chúng tôi không trưng dẫn bằng cách nêu lên giáo lý Rôma. Chắc chắn thời xưa có hai thời kỳ được ấn định để cử hành trọng thể Bí tích Thanh tẩy cho dự tòng. Công đồng Géronde thuật lại (Can. 8): “Mong sao dự tòng chịu phép rửa cùng ngày hay ngày hôm trước lễ Phục Sinh và lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, riêng người bệnh tật sẽ được cử hành vào những ngày lễ trang trọng khác”. Thật sự, ngày nay, những khó khăn nơi cuộc sống đời thường đã làm cho Giáo Hội không còn giữ thông lệ này nữa. Về điều này giáo lý Rôma đã minh chứng. Hơn nữa, sự tuân thủ điều đó đối với những kẻ bất trung thì hầu bất khả thể. Tuy nhiên, không có một lý do nào mà các nhà thừa sai bỏ dở cho dù họ rất nghiêm khắc trong việc thi cử cũng như Thánh luật và ơn cứu độ mà Giáo hội tuân giữ và thi hành trong suốt thời gian qua. Ngày nay, Giáo hội khuyến khích và thậm chí bắt buộc đối với các nhà thừa sai. Những người này phải tỏ ra nghiêm túc và gia tăng dạy dỗ gấp đôi. Thực vậy, họ ra công xây dựng Giáo hội mới mà nền tảng trước hết phải đặt trên những Kitô hữu tiên phong. Ngoài ra, những Kitô hữu này sau cũng như trước, họ là những tân tòng, phải sống giữa một xã hội gian tà và phải tiếp xúc với nó thì chính họ rất khó mà quên những thói quen xấu ngày xưa; thường thì lộ rõ đủ loại tật xấu sau khi lãnh nhận Bí tích Thanh tẩy, đôi khi còn cô lập người mục tử của họ, chối từ những lời khuyên hướng thiện và việc lãnh nhận các Bí tích. Niềm cậy trông vào Bí tích Thanh tẩy bảo đảm cho dự tòng giữ bổn phận một cách dễ dàng hơn và buộc các Thầy giảng chú tâm hơn. Ngược lại, nếu ta làm phép rửa cho họ sớm thì sự thành tâm nơi họ giảm sút, trở nên người lười biếng và bê tha trong đời sống tinh thần. Họ yếu đuối và vô tình sa lầy vũng tội ngày xưa, họ coi thường dược sủng, chai cứng và trở nên bê bối và làm ô danh chính Giáo hội.
Như vậy, đây là điều đặt ra cho các nhà thừa sai khi ban phép Thanh tẩy (cử hành trang trọng trong Bí tích…) cũng như trong trường hợp có những lý do đặc biệt để cử hành Bí tích này.
Nhà thừa sai tổ chức lớp giáo lý khác nhau và tra khảo để nhận định dự tòng của ngài có sống đức tin, trông cậy và tín thác. Mục đích chính và dự định nào của họ nếu họ có khái niệm về luật yêu thương đối với Thiên Chúa, đối với chính họ và đối với tha nhân; nếu họ thuộc lòng Kinh Lạy Cha và tín điều của các Tông đồ, không phải những con vẹt cứ lặp đi lặp lại từ ngữ nhưng trước hết phải hiểu hết nội dung theo khả năng cho phép. Bởi vì Công đồng và các Thánh Giáo Phụ chỉ cho phép người lãnh nhận Bí tích Thanh tẩy khi họ hiểu rõ các mầu nhiệm chứa đựng trong tín điều của các Tông đồ.
Một khoá giáo lý đầy đủ có thể mở ra cho những người không thể theo học nhưng phải là lý do thật chính đáng thì mới cho cho lãnh nhận trước thời hạn. Công đồng Lima (Actio 2, Cap. 4) được khẳng định bởi Sixte Quint. Ngài đã soạn thảo cho họ những huấn dụ chân lý trọng yếu về đức tin như sau: “chỉ có một Thiên Chúa duy nhất, Đấng tạo dựng mọi sự, Đấng ban thưởng cuộc sống vĩnh cửu cho những ai gắn bó với Người và trừng phạt những phường gian ác và xấu xa hình phạt đời đời trong cuộc sống mai sau. Thứ hai: Một Thiên Chúa Ba Ngôi: Cha-Con-Thánh Thần. Nhưng là một Thiên Chúa Duy Nhất, chân thật và không ai khác ngoài Người và Người cũng thật là Thiên Chúa; Bởi vì những vị thần mà người ngoại giáo tôn thờ thì tuyệt đối không phải là Thiên Chúa nhưng đó là những con người hay những điều tưởng tượng của con người. Thứ ba: Người Con duy nhất của Thiên Chúa muốn cứu chuộc nhân loại đã làm người nơi cung lòng Đức Trinh Nữ Maria, chịu đau khổ vì chúng ta, đã chết và đã sống lại. Người trị vì từ bây giờ và cho đến muôn đời; đó là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta và là Đấng cứu chuộc chúng ta. Tóm lại, không ai được cứu độ nếu không tin vào Ngài, nếu không sám hối ăn năn những tội mình đã phạm. Sau đó, phải lãnh nhận Bí tích Thanh tẩy nếu bất trung và lại phạm tội sau khi Thanh tẩy. Sau hết phải tuân giữ và thi hành những điều răn của Thiên Chúa và Giáo hội, tóm lại trong hai điều: Yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và yêu người thân cận như chính mình”.
Lại nữa: cho dù ước muốn lãnh nhận Bí tích Thanh tẩy của dự tòng mãnh liệt đến đến đâu chăng nữa hay sau khi họ đáp ứng tất cả những điều kiện cần thiết về học hỏi thì các nhà thừa sai cũng không nên vội vàng ban Bí tích Thanh tẩy cho họ. Phải chờ đợi bằng chứng cụ thể về ước muốn này. Họ cần thấy rõ sự biến mất của thần tượng nơi ngôi nhà và nơi con tim của họ. Họ từ chối hoàn toàn những điều mê tín dị đoan của Tôn giáo Đa thần, tất cả các hình thức phù phép, ma thuật khác cùng loại, trả tự do cho các bà vợ của họ ngoại trừ một người, khử trừ nơi quả tim mọi ác cảm, sửa chữa trong giới hạn có thể mọi sai lầm bất công đã gây ra, hoàn lại những gì chiếm được bằng phương tiện bất chính và cương quyết chế ngự ý muốn nơi bản thân.
Khi còn ở xa giếng rửa tội, những người cố chấp gắn bó với tật xấu và tội lỗi, cũng phải loại bỏ những người không muốn thực hiện những cử chỉ hoán cải nội tâm. Điều đó, chứng minh rằng ý chí của họ vẫn còn luyến ái tội lỗi. Cũng không nên đón nhận những người tự mãn về Bí tích Thanh tẩy cho một đòi hỏi thích đáng để rồi nén lòng thề hứa thực hiện sau khi lãnh nhận Bí tích. Sự bắt buộc muộn màng này sẽ là nỗi chua xót cho họ. Thời gian về sau, những nhà thừa sai bằng kinh nghiệm của mình đã tự ấn định về vấn đề này; trong những quốc gia vô thần, dự tòng được thúc giục do nơi lòng ao ước Thanh tẩy nên hứa rất mạnh mẽ, nhưng nếu họ không giữ những điều đó trước khi Thanh tẩy thì họ sẽ không bao giờ làm nên điều gì cả.
Dần dần, thời gian Thanh tẩy đến gần, nên cần chu đáo và săn sóc thêm cho việc học hỏi nơi tân tòng: Thật vậy, họ nên hiểu rằng rất cần thiết cho họ để không tiếp cận với Bí tích này một cách dễ dãi và bất cẩn, nhưng nên nhớ bản văn này trong Tông Đồ Công Vụ (Cv 2,38) “anh em hãy sám hối và mỗi người hãy chịu phép rửa”. Từ đó, sự cần thiết ăn năn về cuộc sống đã qua để bắt đầu cuộc sống mới. Như vậy, ta sẽ khuyên họ không nên xấu hổ khi phải từ tốn và khiêm nhu, và nên bày tỏ tình cảm thật khi sám hối, cả những hành động bên ngoài như: gia tăng cầu nguyện, ăn chay, khóc lóc, sẵn sàng và những việc làm khác của sám hối, chuyên tâm vào những bài tập chuẩn bị mà chúng tôi đã cho biết nơi phong tục cổ xưa trong Giáo hội; có lòng nhân ái với người nghèo và bố thí cho họ theo khả năng của mình; hy sinh những công việc khác vào việc từ thiện; Sau hết, dấn thân trong mọi lĩnh vực.
Vì thế, thời gian quan trọng để cho nhà thừa sai dạy dỗ họ là trả lời những câu hỏi đặt ra cho họ khi mới bắt đầu; để biết điều gì nên từ bỏ, điều gì nên giữ lại. Thực vậy, họ phải từ bỏ ma quỷ, ước muốn danh vọng và lối sống xa hoa của mình để tháp nhập vào Đức Giêsu Kitô.
Từ bỏ Satan bằng cách cương quyết xa lánh mọi quan hệ hay thông thương với nó, chối từ quyền bính hay sự giúp đỡ của nó, không bao giờ tùng phục nó cho dù có lợi cho mình, thậm chí tự nó không xấu, không thỏa hiệp với nó.
Từ bỏ ước muốn danh vọng bằng cách quyết định trốn tránh tội lỗi thường ngày dưới cơn xúc động, chẳng hạn như: Tính dục, bội giáo, ngoại tình, say sưa, sát nhân. Tóm lại, tất cả những tội trạng được minh họa trong bản văn Tin Mừng của Thánh Gioan: “Ai phạm tội là xuất phát từ ma quỷ” (Ga 3,8).
Cuối cùng là từ bỏ lối sống xa hoa bằng cách không những tránh tội nhưng còn những thói quen hằng ngày như: yến tiệc, kịch nghệ, khiêu vũ và giải trí…
Với điều này hay điều kia đôi khi cũng hợp lý, song lẽ tất cả góp phần tô điểm cho vẻ hào nhoáng của Satan, vô tình mang đến tội lỗi. Người Kitô hữu phải tẩy trừ nó bằng phép Thanh tẩy; Giáo hội đã khử trừ nó vì Sách Thánh đã lên án; một số Công đồng bênh vực, và các Thánh Giáo Phụ đã không ngừng công kích như là điều bất chính và có hại.
Tháp nhập vào Đức Kitô, Chúa chúng ta, đơn giản là hiệp nhất với Người, một sự kết hiệp cả lý trí lẫn ý chí: hiệp nhất lý trí bằng đức tin mà mọi Kitô hữu được hưởng nhờ qua lời hứa của Bí tích Thanh tẩy để đảm bảo và hoán cải, ngay cả nguy cơ đến tính mạng; Hiệp nhất ý chí qua đời sống Kitô hữu qua việc làm và trung thành với lời hứa, qua việc canh tân và tuân giữ luật Giáo hội.
Tất cả những điều đó phải có đối với những người lãnh nhận Bí tích Thanh tẩy như kiểu rèn luyện ý chí để tự giải phóng khỏi quyền lực của quỷ vương để mang lấy ách êm ái của chúa Giêsu Kitô. Chúng ta giải thích cho họ hay đúng hơn nhắc nhớ họ những hiệu nghiệm phi thường của Bí tích này được trình bày lúc trước, hiệu nghiệm mà Thiên Chúa trao ban cho ngay những ai lãnh nhận Bí tích Thanh tẩy: Xá tội nguyên tổ và tất cả tội khác, xá hình phạt đời đời và nhất thời do tội gây nên, những đặc sủng, đức hạnh phú bẩm, sự hiệp nhất sâu thẳm trong Chúa Giêsu Chúa chúng ta như vị Thủ Lĩnh. Từ việc kết hiệp này đã mang đến sức mạnh và sự can đảm cho các Kitô hữu thực tâm chu toàn giới răn của Thiên Chúa, như S. Cyrille de Jéruslem nói “Bí tích Thanh tẩy, tặng ban nhiều ân huệ lớn lao. Đó là giải phóng nô lệ, xá tội, sự chết của tội, chấn hưng tâm hồn thành trong trắng, được đánh dấu bằng những phẩm chất thánh và không thể xoá nhoà. Đó là một chiến xa mang về Trời, tận hưởng niềm hoan lạc trên Thiên Đàng. Đó là bảo chứng để vào Nước Trời và là tặng phẩm để nhận làm con cái Thiên Chúa”. (S. Cyrille. Hieros. In Procatechesi.).
Để gia tăng lòng nhiệt thành và hiếu thảo nơi dự tòng và kích thích ngọn lửa ao ước lãnh nhận Phép rửa, nhà thừa sai cho họ biết những dấu chỉ và ý nghĩa thiêng liêng của tất cả các nghi thức cử hành: lý do dìm ba lần, đổ nước nhân danh Ba Ngôi Cực thánh, xức dầu thánh trên trán... Tất cả các điều này sẽ được cử hành trong không gian và thời gian cho phép. Trong trường hợp lãnh nhận Bí tích Thêm sức, sẽ phải lãnh nhận ngay sau Bí tích Thanh tẩy và dĩ nhiên phải dạy dỗ những gì liên quan đến Bí tích thêm sức nữa. Giáo luật Rôma cho phép trao ban Thánh Thể cho họ. Qủa thực, Bí tích Thánh Thể là một mầu nhiệm thâm sâu nhất, và đúng tên gọi này thì ngày xưa người ta không dễ dàng gì mà giải thích cho các dự tòng đúng như các Thánh Phụ và truyền thống mong muốn. Sở dĩ có điều này là do có những nguyên do có thể hiểu được nhưng đến nay chúng ta vẫn không thừa nhận sự tồn tại của các nguyên do đó trong lãnh vực này. Ngoại trừ những cản trở đặc biệt trầm trọng ra, thì dường như sau phép Thanh tẩy, chúng ta không đủ lý do để trì hoãn lời dạy về các chân lý cần thiết phải nhận ra để đáng đón nhận Bí tích trọng đại này. Như thế chúng ta sẽ dạy cho dự tòng biết rằng Chúa chúng ta hiện hữu thật dưới hình bánh, hình rượu và Ngài đáng được các tín hữu tôn thờ trong Bí tích này, rằng người ta đón nhận Ngài nơi Bí tích ấy và sự thật là cần phải nhận lấy của ăn thánh này cho tâm hồn trong cuộc sống hiện tại và trong giờ lâm tử.
Cho dù các nhà thừa sai tận tụy hết lòng để đón nhận những dự tòng lãnh nhận phép rửa, mà nếu những người này được tham dự vào thì họ phải hết sức cẩn thận để tránh nguy hiểm đè nặng trên tinh thần còn non yếu của họ qua các bài giảng quá sâu về mặc khải và qua các quá nhiều lời khích lệ vào lúc họ sắp lãnh nhận Bí tích. Như thế đủ để cho họ chuẩn bị trong thời điểm hiện tại và ngay trong lúc lãnh nhận bí tích quan trọng này, và qua những hành vi tuyên tín, kính sợ, cậy trông, bác ái và sám hối.
Phải khắc sâu những lời giáo dục đức tin cho những người trưởng thành không những trước mà cả sau khi họ lãnh nhận Bí tích Thanh tẩy. Như Chúa nói: “vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Nhưng Người lập tức nói thêm: “dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28,19-20). Vậy phải dạy cho những anh em tân tòng thực hành mọi việc tốt và chăm chút cho họ sự hiểu biết đúng đắn về tất cả các bổn phận mà họ sẽ phải trung thành sau khi chịu phép rửa, và về tất cả những gì cần thiết để sống một cuộc sống hiếu thảo, đức độ và trinh trắng. Đối với họ, cần phải kín múc nguồn sống và sự vững vàng trong Lời Chúa, để họ được ở trong sự che chở của Giáo hội như những cây mới trồng đang lớn và để nền tảng đức tin họ đã chọn lựa được ngày càng bền chặt.
Sau khi chịu phép Thanh tẩy, việc chăm sóc đầu tiên mà nhà truyền giáo phải làm là trình bày đầy đủ cho những tân tòng về Bí tích Giải tội, về những điều răn của Hội Thánh và về bổn phận riêng của mỗi thành phần. Tiếp đến là những Bí tích khác và những Bí tích thường lãnh nhận nhất. Có một điểm phải được lưu ý trước tiên đó là làm sao cho họ đừng nghĩ rằng việc tuyên xưng đức tin Kitô giáo đã đủ để tự cứu mình; sự tuyên xưng này sẽ không tác dụng gì nếu không tuân giữ những giới răn và làm những việc lành được những người có thẩm quyền trong đạo quy định.
Vị thừa sai sẽ phải nói đâu là công việc Kitô giáo thực thụ: công việc đó phải xứng với danh xưng này tức là nó hội tụ những điều kiện sau: được làm bởi một Kitô hữu, trong tinh thần tuân phục đức tin Kitô giáo, với mục đích bắt chước Đức Kitô, Đấng Cứu Độ chúng ta, và cuối cùng với một ý hướng tốt lành là ao ước hưởng ơn cứu độ muôn đời và nhằm tôn vinh Thiên Chúa.
Triển khai những bài học Kitô giáo: đó là những mối phúc và những lời khuyên Tin Mừng mà Chúa chúng ta đã dạy các môn đệ của Ngài trong Bài Giảng Trên Núi. (Il donnera la première place aux marques assignées par S. Augustin comme distinctives de tout parfait chrétien) "Ngài nói, người Kitô hữu thực sự phải có lòng trắc ẩn, nhạy cảm với những lời chửi rủa, chia sẻ nỗi đau của kẻ khác như chính của mình, đừng từ chối bất cứ người nghèo khổ nào nơi bàn ăn, đừng làm phiền lòng ai khi đi ngang qua họ, lập công trước mặt Thiên Chúa và các Thiên Thần, khinh ghét của cải thế gian để có của những của cải trên trời, không cho phép áp bức xảy ra đối với bất kì người nghèo khổ nào khi mình có mặt, khóc ngay khi thấy người khóc để bắt chước Thánh Phaolô: ‘Có ai yếu đuối mà tôi lại không cảm thấy mình yếu đuối?’" (S. Aug. de Vita Christi; S. Paul. 2 Cr 11,29)
Vị thừa sai sẽ phải chỉ ra rằng sự yếu đuối và tàn tật của con người lớn đến nỗi chúng ta không thể làm gì được nếu không có sự trợ giúp của ơn Chúa; Vậy từ đâu, để có sự trợ giúp của Chúa, điều cần thiết là phải khiêm tốn trước mặt Người, thú nhận thành thật xác thịt suy bại và khuynh hướng xấu của chúng ta; cũng cần sự trợ giúp thường xuyên của việc cầu nguyện, sám hối, rước lễ và tham dự thánh lễ, có lòng sùng kính đặc biệt đối với Đức Trinh Nữ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, với Thiên Thần Bản Mệnh và Thánh Bổn mạng của ta ở trên trời. Việc thực hành những bổn phận này, tính hiệu quả, tác dụng tích cực của nó và sự siêng năng, tất cả đòi hỏi sự chú ý đặc biệt.
Cuối cùng, để khắc sâu hơn điều này trong tâm trí họ và phát triển sự thưởng nếm nơi họ, vị thừa sai chỉ cho họ điều phải lo lắng và việc thực hành suy gẫm, điều này giúp họ tập trung lòng trí trước mặt Chúa, và cho họ biết việc năng thực hành các nhân đức này có giá trị. Đặt họ vào đúng chỗ tuỳ theo năng lực mỗi người và họ sẽ nhanh chóng nhận thấy chẳng có gì hữu ích hơn cũng như phương tiện nào khả dĩ hơn dành cho sự tu chỉnh của họ và để dần dần đưa họ đến việc sùng đạo và đến các nhân đức.
Chúng tôi chỉ tóm lại những điểm chính yếu cần phải có cho đời sống của người Kitô hữu thực thụ. Nhưng các vị thừa sai phải dành cả thời gian lẫn công sức để thỉnh thoảng nhắc lại những điểm này cho những người dự tòng và giải thích cho họ sâu sắc hơn. Họ sẽ lầm nếu họ nghĩ rằng mình đã hoàn tất hầu hết các nhiệm vụ khi giao những người dự tòng cho Đức Kitô bằng Bí tích Thanh tẩy; bởi thừa tác vụ của họ, họ phải coi mình có trách nhiệm hơn đối với các dự tòng khi họ được chấp nhận như những người con của Thiên Chúa, những trẻ sơ sinh thực sự, vẫn đang còn bú, họ cần chăm sóc về mọi mặt để có thể đạt tới tuổi trưởng thành của sự trọn lành Kitô giáo. Sau đó thật hữu dụng khi để những người dự tòng tự họ hành động ngay khi họ được đào tạo đủ và chấp nhận họ mà không phân biệt trong việc giáo dục chung của cộng đồng tín hữu. Các vị thừa sai không được giảm thiểu sự chăm sóc riêng cho họ. Những cây non này cần được tưới đều đặn, và những cơn lốc cám dỗ có thể dễ dàng lung lay và làm bật rễ chúng. Thường xuyên giao phó họ cho những Kitô hữu lớn tuổi, cổ vũ những Kitô hữu này đối xử thân tình với những người mới trở lại, giúp đỡ họ và cho họ tấm gương về một phẩm hạnh tốt, bảo vệ họ mạnh mẽ chống lại sự lăng mạ của những kẻ bất trung hay những Kitô hữu hư hỏng, nếu thỉnh thoảng có xảy ra, những kẻ mà đã có hoặc sự phản nghịch thì sẽ trách những người tân tòng về lòng tin của họ, hoặc sự xấc xược thì sẽ trách về tính dị giáo của họ xưa kia. Hơn nữa, các vị thừa sai phải không ngừng khen ngợi họ vì việc họ quay về với đức tin, khuyên họ, và giúp họ tạ ơn Thiên Chúa vì một công trình vĩ đại. Phải tận dụng mọi cơ hội để dẫn họ đến nhà thờ với mình, đến với những bài giảng, và những nơi hành hương. Cho họ biết những thông lệ, những lễ nghi, những lời giáo huấn và thói quen của người Kitô hữu. Luôn giúp đỡ họ bằng những ý kiến thánh thiện và những lời khuyên bổ ích, giúp họ trong những nhu cầu, thăm viếng khi họ mắc bệnh; hoà giải những ai thù nghịch và duy trì với họ mối tương giao thân hữu. Chịu đựng kiên nhẫn những cư xử kém trang nhã của vài người trong số họ như đối với mọi tín hữu khác, nhìn nhận họ như anh em, như những giáo dân đáng yêu và là những thừa tự tương lai của Nước Trời.
Thỉnh thoảng, phải đích thân đến thăm họ để cho họ những lời huấn giáo bổ ích; chỉ cho họ thật tế nhị cách sống với những người trong gia đình và với người lân cận; tự động bảo vệ họ khỏi những kẻ thích gièm pha; không để cho những phẩm chất Kitô giáo mới có của họ bị sự coi thường và khinh bỉ lôi kéo.
Cuối cùng, phải chăm chú theo lời khuyên của Thánh Fr. Xavier: Nếu thỉnh thoảng sự lạm dụng có len lỏi vào những Kitô hữu mới này; để chống lại những yếu đuối này, đừng tỏ ra kiên nhẫn quá mức nhưng cũng không được nổi nóng. Là những người gieo mầm Kitô giáo thì phải tỏ ra là người nông dân lành nghề: sau khi gieo hạt giống, phải kiên nhẫn chờ tới mùa để thu về hoa trái mong mỏi đợi chờ do công lao của mình; đừng quên rằng sau khi gieo trồng trong nước mắt, ta sẽ gặt trong vui mừng.
Nếu những tín hữu ngay từ đầu đã không được như mong muốn, thì phải đối xử với họ như người cha nhân hậu đối với đứa con hoang đàng: tin cậy vào lòng nhân từ của Thiên Chúa, phải nuôi hi vọng rằng ngày nào đó họ muốn họ sẽ đáp lại. Vây, phải chăm sóc họ thường xuyên và tỉ mỉ không bớt xén điều gì, cũng như chính Chúa, Cha hết mọi người chúng ta, đã cho chúng ta bài học: lời thỉnh cầu cho những xúc phạm của chúng ta là đừng ngưng nghỉ giây phút nào nhưng hãy làm việc thiện cho hết mọi người.
Các vị Đại diện Tông toà phải có trách nhiệm không những với người dự tòng và tân tòng mà còn với những tín hữu lâu năm, trách nhiệm của người cha đối với con cái, của người chủ chăn với giáo dân, của người thầy với học trò; Vậy phải yêu mến, dẫn dắt, dạy dỗ họ và phải dành sự chăm sóc hơn mức bình thường vào việc hướng dẫn cũng như giáo dục họ. Nhưng sự trung thành làm tròn bổn phận này phải kéo theo cả sự an ủi vỗ về, và công việc này sẽ sinh hoa kết trái: tức là càng đào tạo được những tín hữu đạo đức thánh thiện, thì càng phụ được việc cho các vị thừa sai, sẽ phản chiếu nơi chính bản thân sự tinh tuyền của Giáo hội, sẽ lôi kéo được những người bất trung bởi hương thơm nhân đức của mình, đặt họ tự nguyện tùng phục ách êm ái của Chúa chúng ta. Trách nhiệm của người mục tử rất phức tạp, bởi số lượng và tính đa dạng của những bổn phận; chúng tôi nhận thấy nên thu gọn việc giải thích thành ba điểm cơ bản: hướng dẫn, gìn giữ và cai quản đoàn chiên được giao cho họ chăm sóc.
I. Nhiệm vụ đầu tiên của người mục tử là dẫn đoàn chiên được giao phó đến đồng cỏ, nghĩa là họ có trách nhiệm tìm ra đồng cỏ hoặc thức ăn phù hợp với đoàn chiên và cung cấp cho chúng. Thức ăn này là: lời giáo huấn và sự yểm trợ bước đầu về tinh thần và cả vật chất nữa. Vậy người mục tử - thừa sai phải chăm chú toàn tâm vào việc cung cấp cho các tín hữu Sữa Thần Linh của giáo lý thánh, củng cố họ bằng ơn sủng từ các Bí tích; Trong những nỗi đau khổ sâu xa, hãy nhỏ xuống trên họ những giọt sương êm dịu của sự an ủi; Khi tàn tật, tăng thêm cho họ sức mạnh, giúp đỡ bằng những lời khuyên khi họ đau buồn, bằng sự bố thí khi họ thiếu thốn, nâng đỡ họ hết thảy bằng sự hy sinh và cầu nguyện, vây bọc họ trong sự ân cần của lòng vị tha đầy tình phụ tử. Bởi vì, mình đã vui vẻ hiến cả cuộc đời cho giáo dân chưa nếu không cho họ những thứ đó?
II. Gìn giữ đoàn chiên, nhiệm vụ thứ hai của người mục tử, gồm 3 điều: xua đuổi sói xa khỏi chuồng, dẫn về những con chiên lạc, và liều mình vì chúng. Vậy người mục tử sẽ là người gieo kinh hoàng cho những con sói tham mồi luôn đe dọa đoàn chiên của Chúa: đuổi cho chúng chạy bằng sức mạnh kêu gào. Vậy phải nổi dậy bằng nghị lực chống lại những hào nhoáng của ma quỷ, sự quyến rũ mà chúng dùng hàng ngày để bắt chộp được sự nhẹ dạ của con chiên; Đừng để cho quen phạm tội công khai mà không bị phạt, đây là nguyên nhân gây gương xấu cho những người yếu đuối, cũng đừng để một cơn dịch truyền nhiễm và nguy hại nào len lỏi vào các linh hồn, đặc biệt có một số tật xấu của tính xác thịt là nguy cơ sa sút cho những công đoàn Kitô giáo. Ngược lại, phải gắng sức ngăn chặn họ bằng những lời chỉ giáo riêng tư, ngay cả lời trách cứ công khai cũng không được bỏ xót tuỳ theo hoàn cảnh và khi vấn đề nghiêm trọng, hãy cầu viện đến quyền lực thế tục.
Chính nơi đó mà những người tà giáo lan tràn và chúng cưỡng bức Mẹ Giáo hội, vì thế phải chống đối ngăn ngừa chúng: phải cẩn thận theo sát những âm mưu và nỗ lực dàn trận của chúng, làm thất bại những cuộc hội bí mật của chúng và khiển trách những ai tán trợ chúng. Nhưng mối bận tâm hàng đầu của người mục tử là đổ tràn đầy tâm hồn giáo dân của mình muối giáo lý Kinh Thánh bổ dưỡng, dể bảo vệ khỏi cơn đại dịch của những sai lầm chết người này.
Khi cơn thịnh nộ của những tên bạo chúa nổi lên thì phải an ủi đoàn chiên năng cho họ những lời khích lệ, cổ vũ họ, bảo vệ và bênh vực họ bằng những lời huấn giáo thành kính và bằng lời cầu nguyện của mình.
Thứ đến phải ân cần đi tìm những tâm hồn lầm lạc; và khi đã tìm thấy, hãy vác trên vai, không quản mệt nhọc, mồ hôi và che chở để đưa chúng về chuồng. Những con tự mình trở về thì hãy đón nhận chúng với lòng thương yêu đầy tình phụ tử; sự kiên nhẫn của mình sẽ trị được những con bướng bỉnh nhất và để có thể cứu chúng hết thảy, phải ưng chịu sự yếu đuối của từng con.
Cuối cùng, người mục tử phải nhớ lại rằng Chúa Giêsu - mục tử nhân lành đã hiến mạng vì đoàn chiên: không có công việc nào làm mình chán nản, không nghịch cảnh nào làm mình ngã gục, không nguy hiểm nào làm mình khiếp sợ; nếu có gì liên quan đến ơn cứu độ con chiên, phải bênh vực hết thảy, ngay cả việc nguy hiểm trực tiếp đến mạng sống, ngay khi việc giải thoát bị lâm nguy, ngay khi họ cần sự nâng đỡ cho lòng tin bị lung lay, cần đến người thừa tác các Bí tích, người hướng dẫn, người bảo trợ, cố vấn hay làm chỗ dựa.
Về phần những người chịu trách nhiệm về các linh hồn, sẽ là không đủ nếu chỉ khích lệ những người dưới quyền mình khi sống với họ và làm việc thiện cho họ, nhưng còn có bổn phận thường xuyên thăm hỏi họ để tăng cường tất cả những gì chệch choạng và nâng dậy những gì đang sụp đổ, để cho những người tốt lời động viên và trấn áp những trường hợp bội phản.
Tất cả những ai nắm giữ chức vị (prélature), vì bổn phận, phải biết các con chiên của mình, thậm chí từng khuân mặt, bao lâu có thể làm được, phải đi sát với cuộc sống bình dân và đi sát với sự lãnh đạo của chính các thẩm quyền, để có thể hiểu rõ về đức tin lòng nhân ái của họ và về cấp độ tổ chức giáo dục của họ.
Những người hư hỏng, nếu có, họ cũng không phải chịu ngay những hình phạt tư pháp. Nếu phải thi hành việc sửa lỗi với họ bằng tình cha con hay anh em; trước tiên người ta sửa lỗi riêng với họ sau đó trước mặt người chứng; cuối cùng nếu họ vẫn chưa hối cải, sẽ đưa ra lời quở trách công khai, để cố gắng sửa họ, và sau khi đã thử mọi cách, nhất thiết phải hành động bằng tư pháp để chống lại sự từ chối của họ.
Cũng như nhiều điểm đã đề cập trước, điểm cuối cùng này không tìm ra được sự thi hành khả dĩ, chính ở chỗ này mà những kẻ bất trung hoàn toàn có kẽ hở và cũng vì chỗ này cho nên các mục tử không thể thực thi một quyền cưỡng chế nào được. Trong hoàn cảnh đó, sự dè dặt rất cần cho vị thừa sai để không gây ngờ vực cho các nhà thẩm quyền cũng không gây ra lời vu cáo từ những tín hữu hư hỏng.
Khi các vị thừa sai tới nhiệm sở đã được các Giám quản Tông toà chỉ định, mà không thể nào đáp ứng được những nhu cầu thiêng liêng vì các giáo đoàn cách xa nhau, hoặc vì những yếu tố nghiêm trọng khác, thì chúng tôi dự kiến một bản quy tắc hành động cho những nơi có nhiều Kitô hữu tụ họp.
Trong tất cả các giáo đoàn, tuỳ thuộc vào tầm quan trọng của nó, người ta sẽ phải chọn một hoặc hai giáo dân, những người này phải đặc biệt hơn những giáo dân khác bởi sự hiểu biết về giáo lý Kitô giáo, bởi lòng sùng đạo nhiệt thành và đời sống gương mẫu của họ. Khi có sự hiện diện của vị Đại diện Tông toà, nếu họ vắng mặt, thì sự hiện diện của các thừa sai, những giáo dân được tuyển chọn này trước tiên phải tuyên xưng đức tin và tuyên hứa giảng dạy cho dân chúng không chút thay đổi nào với giáo lý thuần chất và toàn vẹn giống như họ đã nhận từ các thừa sai, tuyên thệ không bao giờ được biển thủ đồ tế lễ của các tín hữu cho việc sử dụng phàm tục của cá nhân hay kẻ khác. Vì sự thiếu thốn các Linh mục, những tín hữu này có một số đặc quyền trên những người khác, họ sẽ phải chăm sóc căn nhà được cung hiến, nơi để tập họp tín hữu ít nhất mỗi tuần một lần và các ngày lễ lớn. Trong trường hợp nguy hại, những cuộc hội họp này có thể diễn ra ở một nơi khác, để tránh những ngờ vực có thể xảy ra.
Ở đó, trước tiên sẽ đọc chứng thư đức tin, để người tham dự hình dung rõ ràng rằng Thiên Chúa đang hiện diện với họ, người ta sẽ thêm vào buổi lễ những việc thờ phượng, tạ ơn, của lễ; sẽ đọc kinh sáng, kinh bắt buộc từng cá nhân mỗi ngày. Để không bị mất đi toàn bộ hoa lợi của Thánh lễ và việc rước lễ, khi họ không thể hiện diện tham dự được, người ta sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho họ bằng những lời cầu nguyện phù hợp với ý hướng này: đó là cho họ hiệp thông tham dự thánh lễ đang được cử hành lúc đó tại nhà thờ khác cũng như rước lễ thiêng liêng Mình Máu Thánh Chúa. Sẽ có một mẫu cho kinh này, mẫu này được Thánh Bộ hay ít nhất là Giám mục chấp thuận.
Họ cũng luôn phải để ý đến lời giáo huấn Tông đồ để "Dâng lời cầu xin, khẩn nguyện, nài van, tạ ơn cho hết mọi người, cho vua chúa và tất cả những người cầm quyền, để chúng ta được an cư lạc nghiệp mà sống thật đạo đức và nghiêm chỉnh" (1 Tm 2,1-2).
Vậy phải tận dụng những ngày Chúa nhật và những ngày lễ lớn, để cho các tín hữu đọc ba Kinh Lạy Cha và ba Kinh Kính Mừng trước khi họ ra về với tất cả lòng sùng kính có thể, với ý hướng sau đây: cầu cho việc truyền bá đức tin Kitô giáo và mở mang Giáo hội Công giáo, cho Đức Giáo Hoàng, cho Đức Giám mục của họ và những mục tử chăn dắt linh hồn khác, cho vua chúa và các thẩm phán; cho những người tội lỗi, vừa hối hận về những việc ác của họ, họ vừa cầu xin ơn tha thứ của Thiên Chúa và rời bỏ đường xấu để đi trên nẻo đường của Chúa; cho người tà giáo để họ trở về với sự trọn vẹn của đức tin, với sự vâng giữ những giáo huấn của Giáo hội Công giáo; cho những người bất trung, vì sự buông thả sai lầm và trái đạo lý của họ, kêu gọi họ trung thành vâng phục đức tin nơi Đức Giêsu Kitô; cho những người đã qua đời, đặc biệt là xác những người đang được đặt trong nhà thờ đó, để họ thoát khỏi những hình phạt nơi luyện ngục. Cũng làm như vậy trong những trường hợp nguy cấp của một bất hạnh hay tai ương nào đó.
Những tín hữu được tuyển chọn này cũng đừng bao giờ quên cung cấp cho huynh đệ của mình thức ăn tinh thần từ bài đọc đạo đức được các vị Đại diện Tông Tòa chỉ định hoặc trình bày cho họ những điểm chính yếu về đức tin và những giáo huấn khác cần thiết cho ơn cứu độ.
Sau đó cho họ biết những ngày lễ lớn sẽ cử hành trong tuần nếu có, cũng như chú ý những ngày lễ vọng và những ngày giữ chay; cũng phải làm như vậy đối với những gì liên quan đến bổn phận đời sống Kitô hữu đòi buộc người ta phải giữ trọn để hoàn thành những giáo huấn này.
Phải thường xuyên rao hôn phối và điều tra xem có gì ngăn trở không.
Cuối cùng, phải thông báo, nếu có, những cáo thị và mệnh lệnh mà các Đức Giám Mục xét thấy đúng lúc phải cho các tín hữu biết, để hướng đạo họ tốt hơn. Tất cả những việc đó sẽ diễn ra trong buổi sáng.
Buổi chiều, nếu có thể, cũng sẽ tụ họp tại đây để đọc những kinh khác đã được chỉ định, thêm vào những kinh này lời xét mình buổi tối và những kinh mà người ta có thói quen đọc hàng ngày trước khi đi ngủ.
Điều phải lo lắng trước tiên của những tín hữu được tuyển chọn là rửa tội cho những trẻ em bị bệnh vì tuổi còn trẻ, dễ gặp những nguy hiểm trầm trọng, ngay cả nguy cơ tử vong; rửa tội cho cả những người trưởng thành khi họ xin vì những lý do này. S. Léon nói rất rõ: "Phải làm phép rửa bất cứ lúc nào cho những người lâm vào nguy hiểm sắp chết, bị vây hãm, bách hại, và đắm thuyền". (S. Leo apud S. Thom., 3 part. q. 86, a. 3).
Phải ghi chép tên của họ vào sổ rửa tội và đánh dấu để phân biệt với những người khác; nhờ vậy, khi đến, vác vị thừa sai có thể gọi họ để bổ khuyết những nghi thức rửa tội.
Phải chăm sóc cách riêng những người bệnh, đến đầu giường những người hấp hối, chôn cất những tín hữu đã qua đời và gởi gắm công khai linh hồn họ cho lời cầu bầu của dân Chúa. Nhân dịp này, hãy chú ý biểu dương lòng kính trọng vô song của người Kitô hữu đối với người qúa cố, cũng như làm câm miệng những kẻ bất trung luôn thèm muốn chỉ trích Kitô giáo hoặc lấy làm tự đắc về việc chăm sóc mà họ làm bộ với người qúa cố của họ.
Giáo dục trẻ em, việc không bao giờ được sao nhãng, phải được khắc ghi trong đầu bằng trách nhiệm của những tín hữu được tuyển chọn, vậy chính họ phải giáo dục giới trẻ và đào tạo chúng thành người giữ đạo tốt; cũng có thể để việc giáo dục này cho những người được tín nhiệm nếu thấy việc làm này là cần thiết; với điều kiện là những người này không xa rời những phương pháp và cách thức được chỉ định.
Thành lập hội những người bảo trợ trẻ mồ côi và người goá bụa có đạo, hoặc cả người ngoại đạo.
Không được tham gia trong bất cứ trường hợp nào vào những vụ kiện của giáo dân mà để họ tự giải quyết, cũng đừng hờ hững với những chuyện đó, nghĩa là để người khác quan tâm; với tất cả sự thận trọng cần thiết và sự đề phòng theo cách thức xứng hợp, mà làm những gì có thể để giữ hoà bình.
Khi có những cuộc kết hôn, phải làm tờ rao để xem hai phối ngẫu tương lai có bị ngăn trở giáo luật hay không; nếu có ngăn trở thì phải xin phép chuẩn của các vị thừa sai; và sau đó, lễ cưới được của hành với sự có mặt của vị đại diện Giáo hội và hai nhân chứng.
Để bảo đảm rằng những sự thánh được mọi người tôn trọng, phải chỉ định một vài quy tắc đặc biệt để hướng dẫn và tạo sự dễ dàng cho họ chu toàn đến từng chi tiết một cách phù hợp với chức vị: rủa tội trẻ em và người lớn, giúp những người hấp hối, chôn cất những người đã qua đời và tổ chức lễ tang, phó linh hồn họ cho Thiên Chúa, đọc lời rao, cử hành lễ cưới và những việc khác có thể là đối tượng trong những quy định của Giáo hội Công giáo liên quan đến những cam kết hôn phối.
Những tín hữu được tuyển chọn này cần có một quyển sách dạy cho họ thật chính xác về cách quản lý cộng đoàn cũng như về cầu nguyện và những nghi lễ được cử hành.
Thỉnh thoảng, nên dành riêng những lời khích lệ, những lời phát biểu trước dân chúng, nếu thấy thuận tiện, về nhiều chủ đề khác nhau như: bốn phần của sách Giáo lý, các mối tội đầu, những sự đời sau, cũng như những lời dạy của Chúa nhằm thánh hóa chúng ta.
Cuối cùng, nhằm an ủi các tín hữu và cung cấp những gì cần thiết cho sự phát triển tâm linh của họ, cần phải lưu tâm đến việc đọc trong nhà thờ những thông điệp chứa đựng lời khích lệ mà các vị Đại diện Tông tòa gởi tới.
Những người tín hữu được tuyển chọn cần có ở nhà một cuốn sổ biểu do các thừa sai cung cấp, dùng để thông báo tín hữu những ngày lễ và những ngày giữ chay. Cần phải có và gìn giữ hết sức cẩn thận các sổ rửa tội, sổ thêm sức, sổ khai tử, sổ hôn phối, và sổ về tình hình sống đạo trong giáo xứ; và để bảo đảm an toàn hơn, cũng có thể bảo quản nó ở một địa điểm khác.
Nhưng một mình họ không thể hoàn thành đầy đủ rất nhiều trọng trách như thế, nên các vị thừa sai cũng có thể cắt đặt vài người để giúp họ.
Trước tiên, chỉ định hai hoặc ba người nghiêm túc để dàn xếp những khó khăn giữa các tín hữu. Những người làm trung gian hoà giải này nên hành động trước khi vụ việc tranh chấp được đưa ra trước hội đồng; qua việc dàn xếp bằng những lời khuyên nhân từ, họ cố gắng giải quyết sự việc và đưa đến sự hoà giải. Khi có ý muốn tổ chức đưa sự việc ra phân xử trước hội đồng và việc này có vẻ như trái ngược với phong tục địa phương, thì cần phải thận trọng, không được khích động mối hồ nghi của những người ngoại giáo.
Tiếp đến, nên chọn một số các nhà giáo là Kitô hữu để họ dạy chung cho người tín hữu cũng như cho người ngoại giáo theo một chương trình bao gồm những môn học thường được dạy ở trường cho thanh niên. Các nhà giáo này cần hành xử với mọi người sao cho họ đánh giá cao tôn giáo mình và chiếm được cảm tình của họ, ngay cả đối với những người ngang ngược nhất. Nhưng mối quan tâm hàng đầu của họ là phải khắc sâu trong lòng các trẻ em cũng như những tân tòng tinh thần trách nhiệm của họ đối với tôn giáo.
Sau nữa, chọn một vài phụ nữ sùng đạo để thực hiện công việc những bà đỡ. Họ phải làm mọi cách có thể để không một trẻ sơ sinh nào phải chết mà không được rửa tội dù cho cha mẹ chúng là người ngoại đạo.
Cuối cùng, nên chọn những đại diện vững vàng và đáng tin tưởng để bổ sung cho những nhiệm vụ bất khả thi mà bình thường chính họ không thấy hết và kiểm tra hết được. Những người này sẽ làm công việc cung cấp thông tin về các tín hữu như: họ phải biết xem cộng đoàn có đi trong đường lối của Chúa hay không hay xem có gì cần phải báo trước cho các thừa sai hay Giám mục không, nhằm ngăn cản các lạm dụng có thể có. Với danh nghĩa này, như những người đứng đầu, họ phải cung cấp tin tức về tình hình của toàn bộ giáo dân và thường xuyên viết thư tới những địa chỉ mà các thừa sai chỉ định.
Việc đào tạo tốt và hoàn bị cho các Thầy giảng không kém phần quan trọng để đạt được những thành công và tiến bộ của các xứ truyền giáo: Ở đó lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít, các Thầy giảng có thể giúp đỡ các thợ gặt này. Nếu việc bách hại hoành hành và xảy đến cho các vị chủ chăn thì các Thầy phải thay thế họ. Cuối cùng họ cũng có thể tiến đến Chức Thánh và được đặt làm đầu các giáo xứ mới thành lập có một nhà thờ. Nhưng mặc khác, các bổn phận ân cần tông đồ và tính cẩn trọng không cho phép chọn một Thầy giảng nếu chưa được đào tạo chu đáo trước, tất cả phải được trau dồi đạo đức qua thử thách, và phải có những đức tính thể lý và tinh thần mà những chức năng quan trọng đòi buộc và người ta muốn ràng buộc họ vào những chức vụ quan trọng này. Một cách thích đáng, xem ra hữu ích nếu chúng ta phân tích chi ly tại đây những điều kiện chính yếu đòi buộc nơi họ làm việc hoặc thời gian thử thách và việc đào tạo hoặc từ việc tiến đến Chức Thánh . Quả đúng thế, vì các Thầy nổi bật bằng những hạnh kiểm không thể chê trách được và một cuộc sống gương mẫu trong tương quan với điều kiện của các cộng tác viên của họ trong việc tông đồ. Nơi họ, việc thực thi bác ái phải bắt đầu từ khi lãnh phép rửa tội hoặc sau lần vấp ngã họ trở lại với Chúa bằng ăn năn chân thành và tình trạng hiện tại của họ tạo mọi đảm bảo cho một cuộc sống khá hoàn hảo.
Trách nhiệm có tầm quan trọng này không giao cho những người kiêu ngạo hoặc nóng nảy, cũng không giao cho những người theo đuổi mục đích xấu xa vụ lợi, cũng không giao cho những người hay say sưa hoặc đánh bạc mà trong một số vùng thói mê cờ bạc này đã trở thành quá mức đến nỗi con nợ không những thua sạch bạc tiền mà còn bán đi cả con người và tự do của chính mình nữa. Các Thầy phải trong sạch từ thể xác đến tâm hồn, giản dị, công chính: có uy tín trong nhiều tương quan. Họ phải nổi bật nhất là kiên nhẫn, dịu dàng và khiêm tốn, có nhân đức tiêu biểu của người Kitô hữu đích thật.
Nghĩa vụ là điều kiện bắt buộc các Thầy phải có để áp dụng trong đời sống nội tâm, để dẫn đưa người khác đến đời sống nội tâm được cân nhắc bằng các phương thức, và phải liên lỉ chiến đấu với ma quỷ mà có loại chỉ trừ được nhờ cầu nguyện và ăn chay, họ phải chuyên cần thắp sáng trong mình lòng nhiệt thành sùng đạo bằng những buổi suy gẫm đều đặn, hãm mình nhất là rước lễ.
Lòng sốt sắng dành cho các linh hồn thì không thể thiếu đối với họ, và họ phải thường xuyên sử dụng những phương thuốc để làm lòng sốt sắng này nóng rực hơn. Họ cần quan tâm đến lòng cảm thông dành cho anh em mình, vì Thiên Chúa đã đoái thương đến họ đến nỗi gọi họ ra khỏi tối tăm bước vào ánh sáng xứng với lòng cảm mến của chúng ta.
Bổn phận của họ là dạy những người khác, nên họ phải thông thạo giáo lý để truyền đạt giáo lý lại cho các dự tòng hoàn toàn hợp với các nguyên tắc đạo đức về lòng bác ái và thánh thiện.
Họ phải chống lại đến cùng những sai lầm của những người ngoại giáo sống quanh họ bằng cách tìm hiểu cội rễ của những sai lầm này, điều rất mong là họ nên đọc sách vì đó là phương cách để hiểu được hàng ngàn truyện kể, ngụ ngôn, và vô số các mê tín dị đoan còn gây nhiều ảnh hưởng cho dân ngoại. Cũng rất hưũ ích khi họ tìm được những điểm nào đó trong dân ngoại mà hợp với chúng ta. Khi được trau dồi như vậy, họ sẽ dễ dàng bác bỏ những lý lẽ của người ngoại bằng những suy nghĩ của chính mình và những kinh nghiệm rút ra từ sách vở nghiên cứu, họ sẽ dễ dàng hơn để khẳng định và chứng minh chân lý của Kitô giáo.
Nhất là họ cần hai điều: hiểu rõ phương pháp diễn đạt một cách đơn sơ nhưng chắc chắn các mầu nhiệm đức tin mà không gây một thiệt hại nào đến tính bền vững, và họ có thể cắt nghĩa cho ai muốn biết nguyên lý của đạo mình giảng dạy.
Đời sống độc thân thích hợp với họ hơn: một cuộc sống đầy dẫy công việc thế tục và bận tâm gia đình sẽ làm họ sao nhãng tác vụ thánh. Dù vậy, những người đã lập gia đình, nếu có những đức tính cần thiết để lãnh trách vụ này cũng không nên hoàn toàn bị loại ra.
Cũng không nên cho làm công việc này với những người do bị khuyết tật gây nên trò cười, hoặc bị khinh bỉ, nói năng khó khăn.
Mặc khác, điều thích hợp là các Thầy giảng luôn làm chủ lời nói của mình, và không nóng giận, không chửi rủa khi bị cho là lầm lẫn, hoặc không được nói nhiều lời khiêu khích.
Ngay cả khi một số người đã có sẵn những điều kiện chúng ta vừa nêu trên, chưa nên dấn thân nhận lãnh ngay trách vụ này, trước khi giao cho họ quyền rao giảng công khai tín ngưỡng và được sự đồng ý của chính quyền, với việc chỉ định nơi họ làm việc. Ở tại một nơi riêng, họ sẽ làm việc dưới sự dìu dắt của các vị thừa sai hoặc một Thầy giảng kỳ cựu: sẽ chính xác hơn khi họ làm việc với nhau theo các giai đoạn ấn định, trao đổi về tình hình tiến triển của các xứ truyền giáo.
Những đức tính cần thiết nơi các Thầy giảng và khả năng hoàn thành các trọng trách dễ dàng nhận thấy nơi các học viên của các chủng viện: việc lưu trú thường xuyên ở các nơi này giúp ta dễ dàng quan sát tài năng, tính tình, khát vọng và đức hạnh của họ.
Mặt khác, cũng có thể chấp nhận một người tuổi cao đến tình nguyện xin lãnh trách vụ này. Vậy phải kiểm tra cách cẩn thận người này theo nguyên tắc đã được công bố và vì nhiều lý do, để người ấy chịu thử thách trong chủng viện bằng việc linh thao. Nếu người ấy còn thiếu gì đó trong việc đào tạo, và nếu ta thấy người ấy còn có những bảo đảm cho tương lai, chúng ta sẽ tiếp tục hoàn thành việc đào tạo và kết thúc việc giảng dạy.
Bởi vì những người nhận nhiệm vụ giảng dạy phải dạy cả những nhà thông thái lẫn những người dốt nát, nên các Thầy giảng phải được đào tạo kỹ lưỡng để ứng xử với tất cả mọi hạng người.
Ngay sau khi được bề trên chủng viện đánh giá là đã được đào tạo kỹ lưỡng, họ nên bắt đầu giảng dạy những dự tòng bình thường nhất cho đến khi họ có đủ kinh nghiệm và già dặn trong chức vụ để giải quyết những chuyện về tôn giáo với những người thông thái hơn, biết cách bác bẻ lại và kết thúc việc giảng dạy của họ.
Điều mà chúng tôi đã nói trước về sự chuẩn bị cần thiết cho người rao giảng Tin Mừng được áp dụng cho các Thầy giảng, sự tương xứng phải có. Những Thầy giảng này chú ý để thuận theo sự chuẩn bị cần thiết ấy. Họ nên nhớ rằng chức vụ của họ là Chức Thánh. Thiên Chúa gìn giữ họ khỏi tất cả tội trọng, nhưng họ đừng bao giờ liều lĩnh bắt đầu giảng dạy cho người khác dù chỉ có một tội trọng trong lương tâm. Trong trường hợp này, nếu họ không thể tìm được cha giải tội, trước hết họ phải cố gắng cho được ơn tha thứ của cha giải tội bằng bằng lòng ăn năn chân thành. Thật ghê tởm trước mặt Thiên Chúa mà họ rao giảng cho những người khác, đó là sự không trong sạch, sẽ là nguyên nhân làm cho sứ vụ họ không có hiệu quả và không mở rộng ân sủng bao la từ trời và từ các mầu nhiệm thánh. Họ sẽ làm tốt để chuẩn bị sứ vụ bằng cách hạ cõi lòng thật trống rỗng, khiêm tốn nhận ra sự bất xứng và tính yếu đuối của họ. Họ không sinh ra trong tội lỗi sao? Và chính họ, họ có điều gì khác như tội nói dối không? Quả thật, họ đã thú nhận với Jêrêmia rằng họ chỉ là những đứa con không có khả năng giảng dạy được, họ nghi ngờ cả chính họ, và họ đã đặt tất cả niềm cậy trông nơi Thiên Chúa: chính qua giọng nói của Ngài mà họ thả lưới, chính Ngài ôm ấp tất cả các con cái của Ngài, chính Ngài là người mở mà không ai có thể đóng lại được, chính Ngài đã tiền định cho các tâm hồn đến với đức tin.
Họ sẽ có một lòng sùng đạo đặc biệt đối với các vị thánh Quan thầy và các Thiên Thần phù hộ các xứ truyền giáo; họ sẽ tìm cách mang lại vinh quang cho Thiên Chúa nhưng không cho họ, bằng việc từ bỏ hoàn toàn để đón lấy lòng thương xót thánh trong mọi nơi họ làm việc.
Có lẽ họ sẽ không thấy những thành quả mà họ đã từng mong nuốn: nên họ nghi ngờ về lỗi lầm và sẽ cầu xin Thiên Chúa tha thứ họ khỏi tội lỗi vì đã gây cản trở cho vinh quang của Ngài và lợi ích nơi các tâm hồn. Nhưng không phải là sự đau đớn do các lỗi lầm của họ làm cho họ mất can đảm hoặc giảm mất nghị lực; nhưng đúng hơn cái đau đớn ấy lại thúc giục họ làm tốt hơn.
Ngược lại, nếu công việc của họ mang lại cho họ một mùa gặt mỹ mãn, họ sẽ góp phần cho Thiên Chúa, tác giả của mọi điều thiện: chính Ngài bắt đầu và kết thúc tốt đẹp nơi chúng ta; chính từ Ngài mà mọi phúc lộc hoàn hảo được ban xuống.
Đôi khi người ta sẽ đặt ra cho họ những thắc mắc liên quan đến Đạo Thánh. Vậy việc đầu tiên là nâng lòng họ lên tới Thiên Chúa; và sau đó họ sẽ nhớ điều mà các vị thừa sai dạy họ ở đề tài này. Đó sẽ là câu trả lời của họ. Nếu câu trả lời đưa ra không làm thoả mãn những người đặt câu hỏi, các Thầy sẽ thêm: “Có nhiều chân lý hiển nhiên mà sự thông hiểu của trí tuệ con người không giải thích được; vậy đừng nên có vẻ ngạc nhiên vì sự thông hiểu thường bị sai sót trước những việc thuộc về Chúa: lòng tin thì cao hơn lý lẽ”. Tóm lại, các Thầy sẽ không ngần ngại thú nhận rằng họ chỉ là những đệ tử thôi và họ còn phải học nhiều: ta chỉ có thể hỏi Thầy của họ có khả năng tháo gỡ những gút mắc và có khả năng làm thoả mãn cho những ai đặt ra những vấn nạn.
Về những luận chứng giả của những người ít học, thường thì chúng ít có giá trị; các Thầy phải cố gắng hết sức mình cho qua nhanh những điều phù phiếm này để tìm ra những lời giải cho các luận chứng vững chãi và nghiên cứu khá kỹ lưỡng. Cũng thế, các Thầy kiên quyết chống trả để chiếm ưu thế đối với bất cứ ai với vẻ ngạo mạn và biến người ấy làm trò cười cho thiên hạ vì đã nói những lời ngu xuẩn. Các Thầy nổi danh nhờ sự lôi cuốn hấp dẫn, các Thầy sẽ không làm ra vẻ nghiêm trang hay rầu rĩ nhưng luôn luôn lễ độ. Các Thầy sẽ né tránh tất cả những thái độ suồng sã với phụ nữ: các Thầy chỉ nói chuyện với họ ban ngày, minh bạch trước những người có mặt làm chứng cho dù có những việc cần thiết đi nữa.
Các Thầy sẽ không đòi hỏi của dâng biếu nào của các dự tòng hay tân tòng; các Thầy cũng không quá vội vàng để nhận món quà gì được biếu tặng cho các Thầy. Trái lại, trước hết các Thầy sẽ quan tâm đến sự khó nghèo của Chúa chúng ta; nếu các Thầy có của dư, các Thầy sẽ phân phát nó cho những người nghèo. Các Thầy sẽ chịu đựng những lời chửi rủa, sỉ nhục bằng tính kiên nhẫn và lòng can đảm và kể cả những cái mà người ta sẽ đè nặng trên vai các Thầy. Các Thầy sẽ bằng lòng như các Tông đồ xưa đã bị xét xử thích đáng để chịu những lời khinh miệt vì Đức Kitô. Và nếu lòng khoan dung của Chúa cho phép các Thầy chịu chết tử vì đạo thì đối với các Thầy đó là lúc tràn đầy niềm hoan lạc. Tóm lại, các Thầy sẽ đổ máu mình cho Đấng mà các Thầy nhận biết, vì chính Ngài đã đổ máu chính mình cho các Thầy.
Chức Thánh thì cao trọng hơn chức Thầy giảng. Vậy các Thầy được đề nghị đón nhận Chức Thánh phải có những phẩm hạnh cao hơn những phẩm hạnh mà chúng tôi đã nói là cần thiết thực tế nơi các Thầy giảng. Hơn nữa, ta sẽ không giao trọng trách quan trọng và nguy hiểm này lên vai những người tu hành bình thường mà cho những Thầy được đề cử bởi những nhân đức thật sự thoát tục, để các Thầy sẽ không tìm lại vinh dự này cho chính họ mà để các Thầy được Chúa kêu gọi như Aaron.
Do đó các Thầy khao khát Chức Thánh, phải được đào tạo trong một chủng viện hoặc từ bên ngoài vào phải được xem xét kiểm tra cẩn thận.
Các Thầy được giao cho vị thừa sai coi sóc và các Thầy sẽ phải trình giấy chứng nhận của vị thừa sai, chứng nhận hạnh kiểm, lòng đạo đức và sự hiểu biết của họ, từ cách làm tròn chức vụ của họ trước kia trong Giáo hội Chúa, và nhất là việc áp dụng cầu nguyện, như những tiến bộ mà các Thầy sẽ làm.
Để chấp nhận cắt một chòm tóc trên đỉnh đầu, các Thầy được đòi hỏi trong giới hạn được phép cho một cộng đoàn chuyên đào tạo thành những tuyển sinh đọc thông viết thạo, ít nữa là trong tiếng mẹ đẻ, để họ hiểu biết chức Thầy giảng của họ và để họ nuôi niềm hy vọng trang trọng một ngày nào đó trở nên hữu ích cho Giáo hội. Những điều kiện này thì tuyệt đối cần thiết.
Để đón nhận những chức nhỏ, họ phải nắm vững những sơ đẳng của tiếng La-tinh để khi cần đòi hỏi, những hiểu biết này và cũng để có khả năng cần thiết hoàn thành xong việc học tập liên quan đến chức thánh.
Các Thầy tương lai dưới chức phó tế sẽ thành thạo cách nói về chức thánh và sẽ hiểu đầy đủ về giáo lý của các Bí tích, ngoại trừ được xác nhận miễn trừ của Giáo hội đã đồng ý cho họ trên đây; hơn nữa trước khi cam kết bởi lời khấn trong sạch vĩnh viễn, họ đã cung ứng các bằng chứng rõ ràng.
Để thích hợp cho họ đệ trình giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản đảm bảo chắc chắn cho sự nâng đỡ hợp với đời sống của họ. Tuy nhiên đối với những lý do chính đáng, Hội thánh cho phép miễn trừ cho họ với tất cả loại giấy chứng nhận. Trong trường hợp tài sản thiếu, ta không nên khước từ các tuyển sinh trở về lại các việc phục vụ tốt cho Giáo hội. Vậy nên ràng buộc họ lại ở vài giáo xứ có khả năng cung cấp phí tổn chăm sóc họ.
Chức phó tế còn ở mức cao hơn, ta chỉ có thể tự đề cử một cách cho hợp với chức này với một tấm lòng sẵn sàng thăng tiến trong nhân đức.
Các Thầy muốn đón nhận việc dâng mình đi tu phải chứng tỏ cho mọi người thấy gương sáng từ các nhân đức thích hợp với các việc phục vụ bàn thánh, để trước mắt họ, mỗi người phải ngợi khen Đấng Sáng Tạo của việc tặng ban lớn lao này và phải tôn kính Chúa, Đấng có các người tôi tớ như vậy.
Những ứng sinh tiến chức phải biết thấu đáo tất cả các điều liên quan đến Hy Tế Thánh của Thánh Lễ. Khi ta có thể dâng thánh lễ, ta có được hiệu quả gì, thánh lễ gồm các thành phần nào, các mầu nhiệm mà Hy Tế Thánh khép kín và cũng như các trường hợp lúng túng có thể xảy ra trong suốt giờ cử hành thánh lễ. Đối với họ không phải là ít cần thiết để hiểu biết, liên quan tất cả các Bí tích, thể thức và chất liệu để hiểu biết các lễ nghi ban cho thường xuyên và những tâm tình xứng hợp để đón nhận các nghi lễ, nhất là liên quan đến Bí tích sám hối. Vậy các Thầy sẽ có đủ khả năng để giải quyết những trường hợp theo lương tri (có ý thức), phân biệt những trường hợp nào dành riêng cho Đức Thánh Cha và những trường hợp nào dành riêng cho các Đức Giám mục, những trường hợp nào thuộc người đã khấn và những trường hợp nào thuộc về con người thường, những cản trở hôn nhân và những trường hợp rút lại Bí tích hôn nhân. Họ cũng nên biết ai bị cấm lãnh nhận các Bí tích. Các Thầy dành hàng ngày ít nhất là một giờ để suy ngẫm những việc trên trời. Các Thầy sẽ múc lấy từ nguồn suy ngẫm này điều mà các sách không có thể dạy các Thầy và vì thế với sự trợ lực của Chúa, các Thầy sẽ có thể chèo chống con thuyền trong an bình hoàn toàn trên mặt đại dương quá nguy hiểm với chức thánh.
Mỗi ngày Chúa chúng ta sẽ được hiến dâng bởi chính bàn tay họ trong lễ toàn thiêu đẹp lòng Cha toàn năng của Ngài. Các Thầy cũng vậy, họ phải ước mơ hy sinh toàn thể cuộc sống cho vinh quang cao cả của Chúa và sự cứu rỗi các linh hồn, trong hiến tế bằng hương thơm ngào ngạt, trong hiệp nhất hoàn hảo và hòa chung một ý với Ngài.
* * *
Tình trạng giống nhau đặc biệt góp phần điều chỉnh kỹ lưỡng và hoà hợp với việc rao giảng Phúc âm. Trong bài thuyết trình về các tín điều, các thừa sai trong khuôn khổ có thể được tiến hành theo cùng một thể thức và đừng nên theo những thể thức khác biệt thường đâm ra mâu thuẫn giữa các thể thức ấy. Ở các lớp đào tạo cung cấp kiến thức cao hơn đã xuất hiện cho chúng tôi đúng lúc để thêm vào những lời giới thiệu sau đây:
Chúng tôi dẫn chứng kỹ lưỡng vài mẫu gương của các sứ vụ tông đồ rất nổi tiếng mà Chúa chúng ta và Đấng Cứu Thế đã làm như chủ đề của các bài giảng của Ngài cho những kẻ không tin. Tuy nhiên ý kiến của chúng tôi bài giảng là chính con người của Chúa chúng ta và các mầu nhiệm của Ngài trước tiên không phải để trình bày trước một cử toạ như thế mà là cho những người bình thường. Sự minh chứng về sự cần thiết của đạo thật và nhất là về những giáo điều phải đi trước và Ngài đã chuẩn bị cho những người nghe tỏ ra khao khát đạo lý của Chúa chúng ta.
Đó là từ việc mà đạo Thánh đã không bị bất cứ thay đổi thiết yếu nào từ khi tạo thành trời đất, đã trải qua những thời kỳ liên tục của lịch sử bởi các cấp độ khác nhau hoàn toàn ngẫu nhiên. Không có gì tự nhiên hơn là chúng ta theo cùng một cuộc vận hành tiến bộ trong việc dạy đạo cho những người ngoại đạo. Mà dưới luật tự nhiên, đạo đã ở trong một tình trạng không hoàn tất. Đó là giai đoạn đầu của đạo đối với sự hoàn hảo mà Đạo đã tìm gặp trong luật ân huệ. Vậy, trước khi giải thích cho người ngoại nội dung của các sách Tân Ước thật cần thiết để bắt đầu bằng cách cho họ một ý niệm đúng đắn của các giáo điều đã bị khép kín trong đạo dưới các điều quy ước của luật tự nhiên. Sự hiểu biết tiên quyết này sẽ làm cho họ ước muốn xin học hỏi thêm những mầu nhiệm hơn. Sự hiểu biết như là nền móng của một dinh thự. Không có nền móng vững chắc làm cơ sở, toà tháp Tin Mừng sẽ không tài nào được dựng nên.
Hơn nữa, các ý niệm mở đầu này, tất cả bừng lên niềm ao ước vào chiếm hữu chân lý, thúc đẩy sự ao ước hiểu biết sự thật bằng cách sắp đặt tùy theo cấp độ đến tâm hồn những người nghe tình thương của Chúa, các ý niệm ban đầu làm họ hoá ra dễ dạy. Thánh Gioan nói: "Ai biết Thiên Chúa thì nghe chúng ta" (1 Ga 4,6). Còn hơn nữa sự hăng say của tâm hồn được thúc dục bởi các bài học đầu tiên, sự lôi cuốn của ý muốn mà họ cảm nhận sự lôi cuốn đầu tiên đối với việc giữ trọn các giới răn của Chúa, tất cả điều đó được đi theo nguồn sáng mang lại sự thông biết; từ đó điều kiện thành dễ dàng để khám phá những nguồn gốc thánh thiện của những sự thật được dạy. Trong Tin Mừng theo thánh Gioan còn nói: “Nếu ai muốn làm theo ý của Người, thì sẽ biết rằng đạo lý ấy là bởi Thiên Chúa, hay do tôi tự mình giảng dạy” (Ga 7,17).
Việc xảy ra quá thường là chúng ta ít có thời gian để làm cho những người ngoại một sự hiểu biết đầy đủ về những tín điều đầu tiên; cũng thế thánh Louis de Grenade đã kết thúc quyển sách của ông về “Sự giảng dạy bằng biểu tượng”. Khi nói rằng có một điểm cần nhấn mạnh nhiều về các giáo điều này. Các vị thừa sai không những chuyên chú cố gắng để làm cho dễ hiểu biết các thần tính mà còn quyết định bằng sự dốc quyết: kết quả của việc học hỏi phải là chê ghét và đau đớn về những tội lỗi đã phạm, kính sợ Chúa, canh tân cuộc sống, tín thác hoàn toàn vào Chúa, một lòng mến in dấu từ lòng đạo đức và từ đạo thánh đối với Chúa là Cha chúng ta.
Sự từ chối liên quan chặt chẽ đến những nguyên lý đầu tiên của đạo thánh và sự bướng bỉnh để từ chối chúng, nếu các nguyên lý ấy đã đến để được trình bày riêng cho dân ngoại thì chúng sẽ phải được sắp xếp giữa những nguyên lý này với nguyên lý kia cho những ai mà chính Đức Kitô đã bênh vực để giao cho sự giấu ẩn của các mầu nhiệm thánh, chức phẩm của họ và việc họ được nể trọng khiến họ đối lập với chúng. Và hơn nữa, các vị thừa sai rao giảng Tin Mừng không nên liều mạng sống vào nơi nguy hiểm. Thật thế, trong Tin Mừng theo thánh Matthêu có nói: “Của Thánh, đừng quăng cho chó, ngọc trai chớ liệng cho heo, kẻo chúng giày đạp dưới chân, rồi còn quay lại cắn xé anh em” (Mt 7,6), và trong sách Nicolas de Lira, thánh Augustin trích dẫn: “Những ai giật bánh của trẻ thơ và quăng cho chó, chúng không phân chia bánh cho đâu mà cướp lấy và ăn sạch bánh. Chúng không biết rằng một ít mầu nhiệm khơi dậy lòng ham muốn trong việc tìm kiếm; Chúng không biết rằng một kho tàng được giấu kỹ và được canh phòng với hết lòng kính trọng, hơn nữa chúng còn không biết người ta lãnh nhận với giới hạn. Vì thế, nên cho không nghiêm khắc đối với những ai xin, nhưng đừng tỏ ra qúa dễ dàng đến độ bất cẩn đối với những kẻ lừa đảo” (S. Aug. apud Nicolaum de Lira).
Thường có nhiều ý kiến trái ngược của những người ngoại giáo về các loại lầm lỗi; nhưng phần lớn đều thống nhất tin vào thuyết luân hồi. Tại sao? Chỉ vì họ thấy con người chính là chủ thể hơn là các loài khác chịu những đau khổ và những tai ương của cuộc sống này mặc dù họ không có lỗi. Họ cho rằng có lẽ nếu quy trách nhiệm của vấn đề này cho một Thiên Chúa công bình và tốt lành thì hợp tình hơn dù không hợp lý lắm. Từ đó họ kết luận rằng những đau khổ đời này là những hình phạt đích đáng dành cho những tội lỗi người ta đã phạm trong quá trình sống ở kiếp trước, trong khi những người có một cuộc sống không tội lỗi và đáng được khen ngợi thì có một số phận tốt đẹp hơn ở các kiếp sau. Để chỉ ra một cách rõ ràng cho những kẻ bất trung sự tồn tại của tội tổ tông, người ta sẵn sàng lợi dụng những đánh giá dựa trên cơ sở của lòng nhân từ và công bình của Thiên Chúa, giống như những đánh giá của Thánh Bonaventura trong sách "Breviloquium".
Những lý lẽ ấy như thế này: "Thiên Chúa là nguyên nhân đệ nhất: chính Ngài làm tất cả, hợp với Ngài và cho chính Ngài. Ngài cần phải là Đấng nhân từ và chính trực tuyệt đối và sự thực thì Ngài là Đấng giàu lòng thương xót và rất mực công bình. Như thế thì tất cả mọi đường lối của Ngài đều là lòng thương xót, công bình và chân lý. Nhưng nếu vào lúc khởi đầu, Thiên Chúa tạo dựng con người từ khối những khổ đau này, mà Ngài không sai sót một tí gì, thì có lẽ đã không có chuyện người ta thấy được nơi Thiên Chúa lòng nhân từ và công bình, phải chăng bởi vì Ngài đã chất trên tác phẩm của Ngài quá nhiều là đau khổ. Sự an bài của Đấng Quan Phòng có lẽ cũng có vấn đề về lòng nhân từ và công bình, bởi vì Thiên Chúa đã hành hạ chúng ta hoặc để cho chúng ta bị hành hạ bởi một lượng tai ương nặng nề mà chúng ta không hề có lỗi. Thế thì một cách nào đó, chúng ta tuyệt đối chắc chắn rằng nguyên nhân đệ nhất, với tư cách là Đấng Tạo hóa và Đấng Quan phòng, hoàn toàn công bình và khoan dung; mặt khác chắc ngay từ khởi nguyên Ngài đã dựng nên con người không có lỗi lầm và đau khổ gì và Ngài điều khiển chúng ta theo cách thức không để chúng ta chịu bất cứ đau khổ nào trừ phi Ngài mở ngỏ cho tội lỗi hoạt động" (St Bonaventura, Breviloquium). Mà nhiều thần học gia bảo vệ một cách chính đáng rằng ân sủng chỉ thánh hóa tâm hồn sau khi ân sủng đã được chấp nhận một cách tự nguyện, hay nói cách khác rằng với tư cách thánh hóa tâm hồn, ân sủng không bao giờ phát sinh hiệu quả trừ phi nó được đón nhận trong tự do. Nguyên tắc này phát ra một thứ ánh sáng sống động về thuyết tội tổ tông, và giúp giải quyết biết bao nghi ngờ liên quan đến tín điều này. Chúng ta cũng tin rằng cần thiết phải trình bày một cách vắn tắt ở đây những nền tảng của tư tưởng này và nhân đó cũng chỉ ra những chân lý đức tin căn bản mà lời giải thích về chúng được tìm thấy nơi đây.
Ơn Công Chính Hóa, tình bằng hữu với Thiên Chúa và được nhận làm con Thiên Chúa chính là những kết qủa căn bản của ân sủng Thiên Chúa ban và những kết qủa đó nhất thiết cần đến sự cộng tác của con người, bởi vì không ai có thể trở nên công chính hay tội nhân nếu không có ý chí tự do của người đó; không thể nào có được tình bằng hữu nếu người ta không tử tế với nhau; việc nhận làm nghĩa tử không bao giờ có giá trị nếu không có sự đồng ý của người được nhận. Điều này cần thiết đến nỗi nếu người cha nuôi chết đi, người con sẽ không được thừa hưởng gia tài nếu trước đó người con đó chưa đồng ý được nhận làm con. Ngoài ra, sự toàn vẹn của cuộc sống hiện tại hoặc tương lai được căn cứ trên một hành động nếu không phải trong hiện tại thì ít ra là trong qúa khứ. Những tình trạng khác nhau mà các nhân đức cấu thành nên cho chúng ta chỉ tạo nên một kết qủa duy nhất là chúng đặt những ai có khả năng hành động và đạt đến kết qủa, khi thì ở một sức mạnh theo trật tự tự nhiên, khi thì ở một sức mạnh cao hơn theo trật tự siêu nhiên tùy theo các nhân đức đó là tự nhiên hay siêu nhiên. Từ đó chúng ta có kết luận rằng: các nhân đức, như những qùa tặng, làm hình thành trong chúng ta sự công chính toàn vẹn, nhưng chúng không tạo một kết qủa nào cho chúng ta, không công chính hóa chúng ta - những bằng hữu và con cái Thiên Chúa - nếu chúng ta không luyện tập các việc làm tương ứng với các nhân đức ấy hay không thực hành các nhân đức khác dung nạp tương ứng với các qùa tặng này. Không phải chúng ta không phù hợp với chúng, nhiều người nói rằng, trong thực tế, ân sủng có giá trị công chính hoá khác với đức ái: trong khi đó nó có hậu qủa riêng của nó, như mọi bản thể, bởi tính tự nhiên của nó. Nhưng khi ấy có lẽ vai trò của nó sẽ là quay về phục vụ cho tâm hồn trong sự hiện diện của Chúa Thánh Thần và trở về mang ý nghĩa là được Thiên Chúa yêu thương. Ai có thể kết luận chính xác và hợp lý rằng nhờ đó tâm hồn trở nên công chính, trở nên bạn hữu và nên con Thiên Chúa? Có một sự khác biệt hoàn toàn giữa "được Thiên Chúa yêu thương" và "là bạn hữu của Thiên Chúa". Các bạn có được Thiên Chúa yêu thương không? Trừ phi lấy tình yêu đáp lại tình yêu, nếu không thì bạn chẳng bao giờ trở thành bạn hữu cũng chẳng thể trở thành nghĩa tử của Thiên Chúa được. Như thế tất cả các kết qủa kể trên trước tiên phát xuất từ đức ái - bạn đồng hành bất khả phân ly của ân sủng, hoặc nói cho rõ hơn thì những kết qủa này với đức ái là một.
Điều này được chỉ ra khá rõ ràng qua lời của Chúa Giêsu trong các bản văn khác nhau của Tin Mừng. Ví dụ như khi Ngài nói về ân sủng được ban tặng dưới hình thức của một tài năng cho người đầy tớ vô dụng, Ngài nói rõ ràng và không úp mở rằng đầy tớ bất trung này không có ân sủng, nhưng Ngài nói không ít về việc này rằng khi thì "nó có", khi thì "nó có vẻ như có". Thánh Maccô nói: "kẻ không có, ngay cả cái nó có cũng sẽ bị lấy đi" (Mc 4,25), thánh Matthêu nói: "nó có vẻ như có" (Mt 25,29) và thánh Luca cũng nói: "cái nó tưởng là có cũng sẽ bị lấy đi" (Lc 8,18). Đó là một đầy tớ vô dụng, với tư cách là người được Thiên Chúa trao tặng, anh ta nắm trong tài năng hay tất cả những gì mang ý nghĩa qùa tặng của ân sủng. Nhưng trong thực tế, anh ta chưa nắm nó trong tay bởi vì trước khi sử dụng nó, anh ta không cho là mình đã đón nhận nó. Dưới cái nhìn của thiên hạ và của riêng cá nhân anh ta, anh ta có vẻ như có nó, bởi anh ta chỉ trọng nó bằng cách gắn bó với nó hay từ chối nó. Lẽ ra Công đồng Trente (IV, 7) đã phá bỏ được mối nghi ngờ cuối cùng về vấn đề đó rồi nếu như Công đồng có thể để lại một. Khi nói về sự công chính hóa, Công đồng nói: "Sự công chính hóa là một sự đổi mới con người nội tâm bằng việc tự do đón nhận ân sủng và các qùa tặng làm cho một tội nhân nên công chính, làm một kẻ thù nên bạn hữu để trở nên xứng đáng thừa hưởng gia tài với hy vọng có được một cuộc sống vĩnh cửu". Luận điểm này phát sinh một sức mạnh đáng kể nhằm giải thích các chân lý khác với bao lý lẽ người ta có thể nêu lên trong việc tuyên tín về chính luận điểm này. Bởi, một cách đơn giản, mọi đề xuất liên quan đến thần học tự thân nó có thể mang một giá trị lớn ngay khi nó được chứng minh là có thể phục vụ đức tin.
I. Khởi đầu từ sự thật này như một nguyên lý chắc chắn, người ta thấy rõ ràng bởi sao Thiên Chúa đã đặt cho Adam một trật tự mà nếu vi phạm thì cả miêu duệ ông phải ở trong tình trạng tội lỗi; bởi sao Thiên Chúa đưa ra mệnh lệnh này cho một mình Adam mà không phải cho mỗi người trong chúng ta. Thiên Chúa cực kỳ khôn ngoan khi đặt mọi sự trong trật tự: sau khi đã sáng tạo con người để thừa hưởng hạnh phúc vĩnh cửu mà Ngài đã tiền định cho, Ngài không chắc là bảo đảm với con người có được thứ hạnh phúc ấy một cách nhưng không, truớc khi con người được đặt trong tình trạng ân sủng và tình yêu thương; nhưng chắc chắn Thiên Chúa muốn cho con người thứ ân sủng này. Có điều, để đạt được hiệu qủa của mình, ân sủng đó phải được đón nhận, và mặt khác sự thật là không phải con người có thể sử dụng lý trí của mình để thực hiện một cuộc chấp nhận ân sủng một cách tự do. Chính vì thế Thiên Chúa tặng ban ân sủng ấy cho Adam, người cha đầu tiên của chúng ta, để ông có thể đón nhận ân sủng ấy cho ông và cho miêu duệ ông; vậy ông nhận được mệnh lệnh mà việc tuân thủ hay vi phạm nó minh chứng cho việc đón nhận hay chối từ ân sủng, và kết qủa của nó sẽ xác định ông cùng với miêu duệ ông có xứng đáng hưởng phần thưởng là thứ hạnh phúc vĩnh cửu đó hay không. Mặt khác, trên thế giới, luật dân sự hợp với những đòi hỏi của tự nhiên: với thân phận kẻ mồ côi và khờ dại, mỗi ngày chúng ta thấy những người đỡ đầu vượt qua với một phần ba các giao ước vững chắc và được pháp luật thừa nhận. Bây giờ giả sử rằng Thiên Chúa đã cho con người quyền chọn lựa người biện hộ, người đỡ đầu cho mình, thì con người có thể có một chọn lựa nào hay hơn là chọn lựa của Adam không, chọn lựa mà tất cả được đổ đầy và trang hoàng với những qùa tặng lộng lẫy của thiên nhiên và ân sủng?
II. So sánh khác: Nếu Thiên Chúa không trao tặng quyền đón nhận ân sủng cho Thiên Thần đầu tiên như đã trao cho Adam, nếu Ngài làm như thế với mỗi một Thiên Thần một, chúng ta thấy ở đây một nguyên nhân có vẻ như đáng giá nhất. Các Thiên Thần cũng ở trong tình trạng sở hữu việc sử dụng quyền tự do phán đoán, và mỗi một trong họ có thể đón nhận hay chối từ ân sủng dành cho họ; những người thiện hảo đã không được tạo nên trong tình trạng công chính trước khi họ đón nhận việc biến họ trở thành bạn hữu của Thiên Chúa, và những người xấu đã không trở nên đối tượng của lòng thần hận (la haine divine) trước khi họ khinh thường và chống lại ân sủng, dù cho tất cả đều được Thiên Chúa yêu thương ngay từ buổi đầu tạo dựng. Như chúng ta đã nói, một đàng đó là tình yêu thương và lòng từ ái, một đàng là tình hữu hảo; riêng lòng từ ái được nảy sinh trong tình hữu hảo là thứ tình dùng tình yêu đáp lại tình yêu.
III. Áp dụng cuối cùng: Dưới luật tự nhiên và luật thành văn, bằng cách trao tặng ân sủng, Thiên Chúa dùng nó là phương tiện để thánh hiến các trẻ em. Tự thân chúng không thể xin được ơn công chính hóa. Thế thì các động cơ kể trên cần thiết cho chúng hơn là sự tuyên xưng niềm tin của chúng và lời chúng hứa phục vụ Thiên Chúa do cha mẹ chúng hoặc những người trung gian nói dùm. Sự cần thiết như thế này được cảm nhận dưới luật ân sủng. Người ta nói rằng con cái chia sẻ niềm tin của toàn Giáo hội. Đức Hồng Y Bellarmin minh chứng điều đó qua nhất trí của các Giáo Phu. Ngài dẫn ra các vị như Denis, Justin, Ambroise, Augustin (người nói rất nhiều về điều này và khẳng định đó là quan điểm của cả Giáo hội), ngay cả Prosper, Bernard, và cuối cùng là Công đồng Trente (VII, 8). Thánh Augustin nói rằng: "Người ta mang các con trẻ đến nhà thờ. Tự chúng không thể đến, nhưng chúng mượn chân cha mẹ chúng để đến tìm sự giải cứu cho mình; Giáo Hội, người mẹ hiền, cho con cái mình thuốc chữa để tự chúng có thể chạy được; Giáo Hội cho chúng mượn trái tim để tin và cái lưỡi để tuyên xưng niềm tin đó. Sở dĩ chúng mắc bệnh, là vì chúng mang gánh nặng tội lỗi của người khác. Nếu chúng được cứu chữa, thì đó là nhờ một sự tuyên xưng niềm tin dưới danh chúng." (St. Augustin)
Chúng ta đã nói khá nhiều về lệnh truyền phải giữ và phương pháp phải theo qua các nhà truyền giáo đối với các người dự tòng có lòng khao khát được tìm hiểu các mầu nhiệm đức tin. Chúng ta nghĩ phải hành động khác đi một chút so với những kẻ bất trung nói chung. Qủa thật những người này đã nghe, đồng thời cũng đã trải qua nhiều chuyện liên quan đến Chúa Giêsu, lại là những kẻ hỏi về bản tính và bản chất của Ngài. Mỗi lần các nhà truyền giáo rao giảng về Ngài vì cần thiết và công ích, họ sẽ không dè dặt khi rao giảng thần tính của Ngài trước khi chỉ ra Ngài rất xứng đáng với sự thánh thiện, tính chí cao của giáo lý mà chính Ngài rao giảng, và vẻ huy hoàng của các phép lạ Ngài thực hiện; tất cả điều đó chứng minh một cách không thể bác bỏ rằng không phải Ngài chỉ là một người bình thường. Chúa Giêsu và Tin Mừng minh chứng điều đó một cách hiển nhiên, các môn đệ, sách Công Vụ làm chứng về điều đó. Vì thấy sự ngu muội của dân chúng, họ đã không bắt đầu rao giảng Chúa Giêsu như một Thiên Chúa. Chúng ta hãy nghe thánh Jean Chrysostome bình luận về sách "Tông đồ Công vụ". Ngài nói: "điều phải kính phục nhất nơi các tông đồ là cách họ tự đặt mình vào một mức độ khiêm tốn của các tinh thần mềm yếu và thô lỗ này; cách này được Chúa Thánh Thần gợi lên cho họ. Chính Chúa Thánh Thần là Đấng chuẩn bị cho họ như thế để thực hiện như Ngài đã phù hợp với thừa tác vụ Lời Chúa. Và qủa thật, dù cho có đọc những bài diễn văn dài dòng về Chúa Giêsu, họ cũng ít đụng đến thần tính của Ngài. Thánh Phaolô, khi nói với người dân thành Athène, cũng lấy làm bằng lòng mang cho Đức Kitô cái tên con người mà không có phẩm tính nào khác. Kết qủa là các Tông đồ hướng dẫn họ từ từ và tiệm tiến; các ngài cố công trong các việc trình bày các tín điều phải theo theo mức độ của tinh thần yếu đuối, để nâng họ lên một mức độ cao hơn”. Vả lại một nhà truyền giáo sẽ phản bội thừa tác vụ của mình nếu như người ấy để mình bị lèo lái bởi sự khôn ngoan của xác thịt là thứ bịt miệng người ấy trước sự nghèo khó của Chúa Giêsu trước những nỗi đau và thánh giá của Ngài. Thánh Tôma nói: "niềm tin Công giáo dạy rằng, chính ơn cứu độ bằng thánh giá của Chúa Giêsu vượt trên tất cả".
Chúng ta sẽ kết thúc phần phụ lục ngắn này bằng lời tán dương luật của Thánh Kinh rút ra từ lời mở đầu của Nicolas de Lira ở đầu quyển "Về các thánh sử khác" (Des autres Évangelistes) của ông. Qủa thật, lề luật hoặc giáo lý Thánh Kinh chỉ là một, được Con Một của Thiên Chúa trao tặng và chỉ có một kết luận. Tuy nhiên, dưới bốn diện mạo khác nhau, Thánh Kinh chỉ ra tính ưu việt của mình so với các lề luật khác do Thiên Chúa hay con người gìn giữ.
Một ghi chú sẽ là điều hiển nhiên. Bằng lý trí, người ta nói các lề luật phải hội đủ 4 điều kiện: (1) luật phải có chức năng nhổ tận gốc các nết xấu, (2) vạch đường đi nước bước cho con người và cho hành động của con người, (3) đem lại hạnh phúc và (4) giúp nhận ra chân lý một cách rõ ràng. Trong sự ưu việt của mình, lề luật hoặc giáo lý thánh kinh vượt trên mọi luật lệ dù thánh hay phàm. Còn về 4 điều kiện này, vấn đề sẽ rõ ràng khi chúng ta kiểm tra từng điều kiện một.
Điều kiện thứ nhất: Phẩm tính đầu tiên của lề luật phải là nhổ tận gốc mọi thói hư tật xấu. Điều kiện này là cần thiết, bởi một trong những mục đích mà các nhà lập pháp theo đuổi là thế vào chỗ không cần thiết những chế tài mang tính cá nhân, để đưa những người đang trên đường tội lỗi ra khỏi nỗi sợ hãi về những hình phạt của lề luật. Thánh Phaolô nói: "lề luật có đó, không phải cho người công chính, nhưng cho người sống ngoài lề luật và bất phục tùng, vô luân và tội lỗi, phạm thánh phạm thượng, giết cha giết mẹ, sát nhân, dâm dật, kê gian, buôn người, nói dối, bội thề, và những kẻ sống ngược với giáo lý lành mạnh" (1 Tm 1,9-10). Để nhổ tận gốc mọi thói hư tật xấu, hiển nhiên là luật phàm nhân không đầy đủ. Thật vậy luật ấy không thể cấm tất cả những điều ác. Chính vì thế mà luật được loan truyền khắp thế giới và bắt mọi người phải tuân thủ. Mà trong cộng đồng nhân loại, ta thấy có ít người đức hạnh và toàn hảo; đại bộ phận còn lại là những người bất toàn và nhiều khuyết điểm. Và hậu qủa của nó là phải có: cũng như đôi khi người ta cho phép trẻ em làm những điều mà người lớn không được phép làm; như thế trong các định chế luật áp dụng trên cộng đồng, người ta đã cố tình bỏ sót cho có một vài lạm dụng để tránh các điều xấu tai hại hơn. Thế là trong ở các thành thị, luật dân sự tỏ ra khoan dung với các cô gái điếm để tránh những bất trắc mà những phóng túng về phong hóa (licence des moeurs) có thể gây ra cho đất nước: bởi do sự bất toàn của mình, dân chúng có thể sẽ không biết giữ gìn tiết hạnh. Thánh Augustin nói: "hãy dẹp bỏ các cô gái giang hồ khỏi các thành thị và tiếp theo đó các ông sẽ du nhập vào một mớ hổ lốn các đam mê tình dục". Để chống lại các điều ác mà luật dân sự không có phương tiện phù hợp thì các điều ác đó được dành cho sự phán xét của Thiên Chúa là Đấng trừng phạt nó. Thánh Augustin còn nói thêm: "Nằm trong tầm kiểm soát của chính quyền, luật này đã có nhiều châm chước và để sót nhiều tội đáng phạt, những tội làm tăng thêm sự báo oán của Đấng Quan Phòng". Cũng thế, dù được Thiên Chúa trao cho, nhưng luật Môsê đã cho phép có nhiều sự lạm dụng: chẳng hạn như luật này cho phép cấp giấy ly dị như chương 24 của sách Đệ Nhị Luật nói, để giải thoát phụ nữ khỏi phải phục tùng dưới sự kìm kẹp của chồng họ. Cũng theo sách Đệ Nhị Luật chương 28, luật này cũng cho phép cho người ngoại vay lấy lãi để tránh gánh nặng cho các thành viên trong gia đình. Và lý do của việc châm chước này là vì luật đã được giao cho một dân tộc thô lỗ, cứng đầu và bất toàn. Cũng có nhiều lạm dụng khác được cho phép để tránh những hậu qủa nặng nề hơn. Chính vì thế mà Thiên Chúa nói với người Do thái về "luật ly dị": "Vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Môsê mới cho phép các ông rẫy vợ" (Mt 19, 8). Như thế, một điều hiển nhiên là luật nhân loại hay luật Môsê cho phép có một vài lạm dụng và về điểm này thì luật này là luật không toàn hảo. Ngược lại, luật thánh kinh đạt đến sự toàn hảo bởi nó không để hở cho một lạm dụng nào cả. Nó loại trừ mọi lạm dụng, và muốn tất cả lạm dụng đều phải bị trừng phạt. Chính vì thế mà Đức Giêsu, nhà làm luật thánh kinh đã tuyên bố: "qủa thật ta bảo thật các ngươi, trong ngày phán xét, người ta sẽ điểm lại mọi lời phù phiếm đã phát ra từ miệng họ”. (Mt). Nếu điều đó đúng với mọi lời nói vô ích, thì điều ấy lại càng đúng với mọi hành động. Như thế, điều kiện đầu tiên này được thiết lập mà không có chống đối nào để biết rằng luật thánh kinh vượt trên mọi luật khác trong việc loại trừ tận gốc các lạm dụng.
Điều kiện thứ 2: Luật dẫn lối cho con người và các hành động của con người về điều thiện. Triết gia Êtica nói: "Ý định của mọi nhà lập pháp là làm cho các công dân nên tốt lành". Ở đây luật nhân loại còn thiếu sót: con người không có khả năng phán đoán về cái gì đang diễn ra trong lòng mình; luật nhân loại phải tiết chế tâm tính của mình đối với các hành vi bên ngoài. Sách thánh nói rằng con người thấy những gì hiển hiện bên ngoài, nhưng Thiên Chúa dò xét những gì bên trong" (1 V 16,7). Như thế chỉ mình thánh luật mới điều chỉnh được những hành động trong lòng. Luật Môsê không đủ làm điều đó. Luật cũ chỉ giữ được bàn tay mà không giữ được ý muốn. Điều này có thể được hiểu bằng hai cách: trong một nghĩa sai lầm như các tiến sĩ luật Do thái bảo đảm rằng khi một hành động với ý muốn xấu không thành tội nếu hành động ấy không biểu lộ ra bên ngoài dưới một hình thức nào đó, như sử gia Josèph khẳng định rõ. Chúng ta đáp lại họ một cách mạnh mẽ nhờ sách Xuất hành: "ngươi đừng ước muốn vợ người ta" (Xh 20,17); nhưng họ lại trả lời rằng lệnh không cấm những ước muốn bên trong mà là cấm biểu lộ bên ngoài, và nói thay vì "ngươi đừng ước muốn" thì phải nói "ngươi đừng có biểu lộ bên ngoài chẳng hạn như ôm, hôn, và các biểu hiện khác". Đó chính là sự giả dối, bởi vì hành động bên ngoài chỉ chất chứa sự ranh ma hay sự tốt lành bao lâu mà hành động ấy được làm vì một hành động bên trong ranh ma hay tốt lành; tội lỗi chỉ đúng là tội khi nó được thực hiện với ý muốn, và nếu không có ý muốn thì đó không phải là tội. Nhưng có một cách hiểu khác về thuật ngữ trên. Luật cũ giữ được cái tay nhưng không giữ được ý muốn, chắc chắn thế. Có nghĩa là luật cũ có ít điều ngăn cấm gắn liền với ý muốn hay những ước muốn giản đơn của tâm hồn như ngoại tình hay keo kiệt chẳng hạn; và trong giới hạn đó, luật cũ chống lại những ước muốn xấu nhưng lại không có quy định về hình phạt cho những vi phạm đó, và điều đó chứng tỏ rõ ràng sự bất toàn của nó. Ngược lại, luật Thánh Kinh chính là luật toàn hảo. Nó chống lại tất cả các ước muốn xấu nói chung và có những chế tài đối với tất cả những gì hoài thai nên chúng. Thánh Matthêu viết lời của Đấng Cứu Thế như thế này: "Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ giết người, và ai giết người thì đáng bị đưa ra tòa. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết, ai giận anh em mình thì đáng bị đưa ra tòa". (Mt 5,21-22). Và Ngài giữ nguyên lối nói đó đối với các lệnh truyền khác; điều đó chứng tỏ luật thánh kinh không phân chia ranh giới các cấm đoán của mình với các hành động bên ngoài, nhưng trải dài các cấm đoán đó ra mọi hành động bên trong. Đó là điểm thứ hai mà chúng tôi muốn xác định.
Điều kiện thứ 3: Điều kiện này thuộc về luật đem lại hạnh phúc cho con người. Luật nhân loại chỉ góp phần vào hạnh phúc xã hội, nhắm đến sự yên ổn và hòa bình cho đất nước trong cuộc sống đời này. Nhưng thành phần chính của con người là trí tuệ, mà theo dó con người là loài phải chết. Như vậy con người cần phải nhắm đến một thứ hạnh phúc đích thực nằm ngoài cuộc sống đời này. Ở đây luật thánh bổ sung những gì còn thiếu cho luật nhân loại. Mọi tiến sĩ đều chứng tỏ sự cần thiết của học thuyết có trong các Sách Thánh của chúng ta. Con người được tạo nên để hưởng hạnh phúc siêu nhiên, và luật do Thiên Chúa mạc khải cho con người có chức năng dẫn con người đến hạnh phúc ấy. Người ta thấy rằng luật Môsê cũng không đầy dủ. Người ta chỉ có thể đạt được hạnh phúc siêu nhiên nhờ ân sủng. Ân huệ Thiên Chúa ban chính là cuộc sống vĩnh cửu (x. Rm 6,23). Luật Môsê không ban cho con người ân huệ này nhưng chỉ giới thiệu mà thôi. Thánh Phaolô nói: "lề luật chẳng làm cho cái gì nên hoàn hảo cả" (Dt 7,19), nhưng nó chờ đợi nơi Đức Kitô sự toàn hảo này. Thánh Gioan làm chứng rằng: "lề luật được Thiên Chúa ban qua ông Môsê, còn ân sủng và sự thật thì nhờ Đức Giêsu Kitô mà có" (Ga 1,17). Còn thánh Matthêu thì dẫn lời của Đấng Cứu thế như lời dẫn vào luật Thánh Kinh: "Các ngươi hãy sám hối vì nước Thiên Chúa đã đến gần" (Mt 3,2). Điểm thứ 3 đã được chứng minh như thế.
Điều kiện thứ 4: Điểm thứ 4 này thuộc về tính trong sáng của luật trong việc truyền đạt chân lý sao cho mọi người có thể nắm bắt được. Yếu tính của luật là tất cả mọi người phải hiểu và tuân thủ nó. Mà tinh thần kém cỏi không phải là hiếm trong dân chúng, trong khi đó các tinh thần tinh thúy và có nhuệ khí lại chỉ mang con số nhỏ nhoi. Vì vậy mà luật dành cho đại chúng cần phải trong sáng. Dù ít hay nhiều, luật nhân loại cũng thiếu tính chất này. Người ta thấy nhiều chỗ mơ hồ làm cho khó xử, bằng chứng là có rất nhiều huấn giới, tính biến hóa và sự thay đổi của nó, không kể đến những chỗ không bao giờ dùng đến như chúng ta thấy hiển hiện trong nhiều bộ luật dân sự và tôn giáo. Luật Môsê cũng không thiếu những khiếm khuyết. Nó đặt chân lý dưới bức màn và có nhiều hình ảnh tượng trưng dùng cho việc điều chỉnh các hành động và các niềm tin cần thiết. Đó là ý nghĩa biểu trưng trên khuôn mặt che khăn của Môsê. Sách Xuất hành (Xh 34,33) có thuật lại việc Môsê che mặt khi nói với dân chúng. Điều này làm thánh Phaolô viết cho các tính hữu Côrintô rằng: "tất cả những sự kiện đó đến với họ dưới dạng hình ảnh" (1 Cr 10,2). Còn luật thánh kinh thì bao hàm sự toàn hảo này. Chân lý được ẩn dấu dưới dạng hình ảnh của Cựu ước đã được biểu lộ ra. Chúng ta có một hình ảnh rõ ràng diễn ra trong cuộc thương khó của Chúa Kitô: các bí mật đã không còn nữa trong Luật Mới, "Bức màn trong đền thờ bị xé ra ngay chính giữa" (Lc 23,45). Và Chúa Cứu thế đã chứng nhận qua miệng thánh Gioan: "Sẽ đến giờ Thầy không còn dùng dụ ngôn mà nói với anh em nữa, nhưng Thầy sẽ nói rõ cho anh em về Chúa Cha, không úp mở" (Ga 16,25). Và ngay lập tức: "các môn đệ Người thưa: Đấy, bây giờ Thầy nói rõ chứ không còn dùng dụ ngôn nào nữa" (Ga 16,29).
Như thế điểm thứ 4 đã được xác lập. Như thế để thấy rằng khi nói về chân lý một cách rõ ràng và trong sáng, luật Thánh Kinh mang trong nó tất cả mọi lề luật.
Câu 8 trong thánh vịnh 19 (18) có đề cập 4 điểm này. Câu này nói về luật của Chúa Giêsu, có nghĩa là luật Thánh Kinh mà Chúa Giêsu Kitô mang lại cho chúng ta. (1) Luật ấy không sai lầm vì nó không dung thứ cho bất cứ lỗi lầm nào. (2) Nó mưu ích cho việc hoán cải nội tâm. (3) Nó là minh chứng trung thành của Chúa Giêsu, bởi nó là phương tiện hiệu qủa dẫn đường đến hạnh phúc đích thực đã hứa. (4) Cuối cùng nó "làm cho người dại nên khôn" bởi nó giúp cho mọi người có khái niệm rõ ràng về chân lý.