Khi hỏi về ý nghĩa của cuộc sống, hay đâu là nguyên nhân và mục đích cuối cùng của mọi sự hữu, dường như con người một cách mập mờ đã tìm thấy câu trả lời đâu đó trong thâm sâu niềm tin của mình, đặc biệt trong lãnh vực tôn giáo. Theo đó, tôn giáo không thể không có liên hệ nào đến triết học trong hành trình tìm kiếm Chân Lý. Tuy nhiên, cội nguồn của hiện hữu trong hướng đi của triết học và tôn giáo lại được diễn tả theo những cách thức rất riêng, nhất là đối với vấn đề Hữu Thể Tuyệt Đối, hay là Thượng Đế. Vậy Thượng Đế của triết học và tôn giáo được diễn tả thế nào, và đâu là lối tiếp cận phù hợp đưa con người tới Chân Lý Tuyệt Đối ấy?
Để có được một cái nhìn khái quát về Thượng Đế của triết học và tôn giáo, thiết nghĩ cần đi sâu vào chính cái nôi phân hóa, đối kháng trong dòng lịch sử lẫn ý niệm về Thượng Đế của các triết gia và thần học gia. Như vậy, bài viết xin giới hạn chủ đề trong các tôn giáo độc thần, bởi lẽ nếu Hi Lạp là quê hương của triết học mà sau này mở rộng ra là Âu Châu, thì cũng chính tại nơi đó, các tôn giáo độc thần, đặc biệt là Kitô giáo đã cắm rễ sâu.
Thượng Đế của triết học và tôn giáo, một Đấng khuyết danh
Trước hết, trong bất kì lãnh vực nào của tri thức cũng đều có chủ thể và đối tượng. Tuy nhiên, nếu khoa học là lãnh vực của các “vấn đề”, nghĩa là đối tượng mà khoa học nghiên cứu chính là những vấn đề mà ta có thể gặp, nó nằm trước mắt ta, có thể xem xét nó, giản lược nó, thì đối với lãnh vực triết học, theo Marcel lại là lãnh vực của “huyền nhiệm”, mà “huyền nhiệm” lại là điều mà ta dìm mình vào trong một bầu khí, bấy giờ “trước mắt tôi”, hay “trong tôi” không còn giá trị hay ý nghĩa nào nữa. Như vậy, Thượng Đế của triết học không thể là một đối tượng cụ thể khả giác, hay những dữ kiện đa phức để có thể đi đến một kết luận vững chắc, nhưng là một đối tượng của tinh thần.
Ngoài ra, trong suốt dòng chảy lịch sử tư tưởng triết học, các triết gia với những triết lý, quan điểm, lập luận khác nhau đã cho ra đời vô số ý niệm về Thượng Đế. Đối với Platon, Thượng Đế là Đấng Toàn Thiện. Với Aristote, Thượng Đế lại là nguyên nhân để vạn vật có ý nghĩa chứ không là nguyên nhân sáng tạo. Còn Thượng Đế của Decrates trong trường phái duy lý chỉ là một ý tưởng rõ ràng và minh bạch.[1] Tóm lại, Thượng Đế của các triết gia là một Đấng thực hữu trong suy tưởng, chứ không hiện hữu đích thực bên ngoài. Như vậy, khi tìm hiểu về một huyền nhiệm mà con người chưa từng có kinh nghiệm, lẫn ý niệm cách đầy đủ, đúng đắn, thì dường như bằng lối tiếp cận duy lý của mình, con người đang nỗ lực đóng khung Thượng Đế trong giới hạn của lý trí và trí tưởng tượng của con người. Lý trí cho Thượng Đế là A thì Người là A, mà nó cho rằng Người là B thì ngoài B ra Người không thể là một ai khác.
Cũng giống với Thượng Đế của các triết gia, Thượng Đế của những kẻ tin cũng là một huyền nhiệm mà họ không thể hiểu được. Tuy nhiên, nếu Thượng Đế của triết học không có ngôi vị, là họa ảnh được phóng chiếu bởi lý trí của những nghệ sĩ là các triết gia, thì đối với những kẻ tin, Thượng Đế của họ hiện hữu sống động, có ngôi vị, là Đấng đã tỏ lộ, mạc khải chính Người cho con người. Con người ngoài hành vi mở ra để đón nhận Thượng Đế thì không thể làm gì khác hơn. Bởi lẽ, con người với ánh sáng của lý trí tự nhiên không thể nắm bắt một huyền nhiệm siêu vượt trên mình, và nếu lý trí có tỏ ra bất mãn để đòi hỏi chút quyền lợi thì cũng chẳng khác nào những thầy bói mù cùng cố gắng gọi tên một sự vật nhưng lại cho ra không biết bao nhiêu kết luận khác nhau.
Tóm lại, các triết gia và thần học gia mặc dù đã rất cố gắng để gọi tên, hay định danh Thượng Đế của họ cho thế giới, nhưng có chăng những nỗ lực đó chỉ nêu ra những phẩm tính và thuộc tính của Người mà thôi, còn Thượng Đế thực sự là ai, đích xác là vật gì, yếu tính của Người ra sao thì lại là điều không thể. Bởi lẽ, như đã nói, Thượng Đế là một huyền nhiệm.
Con đường vươn tới Hữu Thể Tuyệt Đối
Mỗi loại tri thức đều áp dụng một phương pháp phù hợp nhất, có hiệu năng và tiện lợi nhất theo những tiêu chuẩn của riêng nó, chứ không thể bó buộc theo một phương pháp, hay lối tiếp cận cụ thể nào. Ví dụ, không thể áp dụng phương pháp, công thức của vật lý học để phê bình một tác phẩm nghệ thuật. Cũng vậy, triết học hay thần học đều có những phương pháp riêng biệt để tìm hiểu về Thượng Đế. Tuy nhiên, nếu Thượng Đế là một hữu thể sống động, có ngôi vị, thì đâu là lối tiếp cận đúng đắn tránh được sự hàm hồ, quy chụp?
Hẳn nhiên, tri thức thường nghiệm và thực nghiệm của các ngành khoa học không thể giúp ích nếu đối tượng là một thực tại phi khả giác. Trái lại, năng lực của lý trí mặc dù là một phương thế hữu ích giúp con người suy tư về thế giới tinh thần, nhưng nó cũng có những giới hạn riêng. Trước đây, lý trí hoàn toàn bị thuyết phục với ý niệm trái đất là trung tâm của vũ trụ, hay trái đất là một mặt phẳng. Trên phương diện toán học, một lãnh vực được cho là chính xác nhất cũng có những sai số trong đó. Qua đó, ta có thể nhận ra giới hạn của tất cả phương thức tiếp cận hiện nay của con người.
Cho đến nay, đa số vẫn phủ nhận tính hợp lý của niềm tin, với nhận định niềm tin thì không có cơ sở, trái nghịch với tri giác lẫn lý trí, không thể nào là một lối tiếp cận để tìm ra sự thật. Tuy nhiên, nếu ai đó nghe được đâu đó rằng, 1+1=2, dẫu người đó không thể dùng lý trí để chứng minh cho mệnh đề trên, thì có ai dám khẳng định điều mà người này tin là hoàn toàn sai, không đúng với sự thật khách quan? Cũng vậy, giả như một ông bố kể lại cho con của mình rằng, trước đây, khi cậu chưa được sinh ra, trong sân sau của nhà có một cây hoa hồng ra hoa bốn mùa, nhưng nay nó đã chết. Một cách nào đó, cậu bé không cần hỏi lại mẹ của mình, hay ai đó biết về chuyện hoa hồng, nhưng xét rằng bố của cậu là người hoàn toàn minh mẫn, không bị đãng trí hay điên khùng, và là một con người thành thật, cũng như bố sẽ chẳng có được lợi lộc gì nếu lừa dối cậu, và dù chuyện ra hoa bốn mùa có hơi phi lý, thì cậu bé hoàn toàn có thể tin cây hoa hồng đó đã từng hiện hữu trong sân nhà mình. Những ví dụ trên cho ta thấy tính hợp lý của việc tin, và mặc dù không vững chắc nhưng nó hoàn toàn có thể là một lối tiếp cận chân lý.
Hơn nữa, theo thánh Anselmô, Thượng Đế là một điều vĩ đại hơn bất cứ thứ gì mà con người quan niệm. Nghĩa là, Thượng Đế là một thực tại vượt ra khỏi lý trí con người. Cũng như khi đứng trước một căn phòng đóng kín, nếu ai đó cho rằng mình có thể tưởng tượng được trong đó có gì và nghĩ rằng điều mình phỏng đoán là đúng, thì hẳn nhiên sự vật không vì có trong lý trí của người đó ắt cũng thực tế sẽ hiện hữu trong căn phòng kia. Trái lại, nếu ai đó tin rằng trong căn phòng đó có một cái bàn, thì cái bàn cũng chẳng thể vì tin mà hiện hữu thật, nhưng niềm tin đó thay vì đóng lại như lý trí tưởng tượng lại mở ra cho họ một cơ hội to lớn để khám phá thực tại sống động trong căn phòng đó. Tuy nhiên, nói như vậy không có ý phủ nhận vai trò của lý trí khi tiếp cận huyền nhiệm Thượng Đế, bởi lẽ lý trí soi sáng cho lòng tin, giúp con người tránh được sự mê tín dị đoan, ấu trĩ. Ngoài ra, đức tin không phải là một tĩnh vật nhưng là một sự sống sinh động, mà đã là sự sống thì phải luôn biến dịch, chuyển động và lý trí chính là một liều thuốc thử giúp cho đức tin ngày một trưởng thành hơn.
Nói cho cùng, để đi đến với Chân Lý, tôn giáo không thể khăng khăng con đường duy nhất là đức tin, ngược lại, triết học cũng không thể quả quyết cho rằng, buộc đó phải là lý trí. Thật vậy, hàm hồ, tự phụ, hay thỏa mãn vì cho mình đã thủ đắc được chưa bao giờ là thái độ của những người đi tìm Chân Lý. Nếu một kẻ tin phải ngoan ngùy, cung kính nghiêng mình trước Thượng Đế, là Chân Lý Tuyệt Đối, thì thái độ của của một triết gia trên hành trình đi tìm Chân Lý là gì nếu không phải là khiêm cung, từ tốn, bình dị, dũng cảm.
Antôn Lee
ĐCV. Thánh Phanxicô Xaviê
[1] Dominique Morin, (LM. Phêrô Đặng Xuân Thành và ĐGM. Luy Nguyễn Anh Tuấn dịch), Gọi Tên Thượng Đế, Nxb. Tôn Giáo, 2019, 32.