Sự Dữ và Nguyên Tội

Tue,05/01/2021
Lượt xem: 3314

Fr. Joseph Tân Nguyễn, ofm

Sách Sáng Thế kể lại rằng khi Ađam và Evà nghe theo lời cám dỗ ăn “trái cấm” thì mắt họ được mở ra, họ cảm thấy xấu hổ khi biết mình đang trần truồng và bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng. Từ đó loài người đánh mất cơ hội trường sinh bất tử và phải tự sống bằng mồ hôi nước mắt của chính mình.  Họ phải phấn đấu với thiên nhiên để bảo tồn sự sống, và phải đương đầu với đầy dẫy gian nan và truân chuyên. Hạnh phúc không hưởng được bao nhiêu, nhưng nước mắt và đau khổ thì nhiều.

Đời là bể khổ! Đa số các tôn giáo xem đó như là một chân lý đại đồng. Thần học Kitô Giáo đi xa hơn nữa, cho rằng hành động ăn “trái cấm” không chỉ là sự lạm dụng tự do Chúa đã ban cho loài người, mà còn là nguồn gốc của mọi sự dữ trên thế gian.  Nhưng “nguyên tội” là tội gì mà cả nhân loại đều phải mang cùng thân phận này? “Nguyên tội” đã lan truyền xuyên suốt dòng lịch sử loài người bằng cách nào? Nếu Thiên Chúa đã Đấng tạo dựng nên muôn loài, trong đó có cả con rắn, “hiện thân của Satan”, và cho phép nó đến cám dỗ loài người, thì ai là người có trách nhiệm tối hậu cho “tội” này?  Tại sao loài người bị phạt vì một “tội” mà không xuất phát từ chính mình? Qua sự cám dỗ, con rắn đã cướp mất khả năng trường sinh bất tử và trở thnh “kẻ thù truyền kiếp” của loài người, vậy con rắn đóng vai gì trong mối tương quan giữa con người và Thiên Chúa? Tại sao có sự thay đổi trong quan niệm về thân xác, cuộc sống lứa đôi, và mối tương giữa Thiên Chúa và con người sau khi “ăn” trái cấm? Để giải đáp những khúc mắc này, chúng ta hãy đi ngược dòng lịch sử, trở lại thời điểm mà việc ăn “trái cấm” chưa được xem như  là “nguyên tội” và hãy tìm hiểu ý nghĩa của sự tích này trong bối cảnh nguyên thủy của những chuyện cổ tích vùng Trung Đông.

Ngày nay, các khoa học gia đồng ý là loài người không thể khởi đầu từ “vườn địa đàng” nhưng là kết quả của một tiến trình biến hóa mất hằng triệu năm, trải qua rất nhiều giai đoạn thoái hóa và phân loại khác nhau. Công Đồng Vatican II tuyên xưng Thiên Chúa là tác giả nguyên thủy của mọi tạo vật, nhưng vẫn xác định giá trị khoa học về sự tiến hóa của loài người. Khoa chú giải Kinh Thánh cho rằng Sách Sáng Thế không phải là loại một “sử liệu,” viết với mục đích trình thuật chính xác các biến cố lịch sử như Sách Dân Số, Sách Xuất Hành, v.v., nhưng là một loại “huyền sử” được đúc kết từ nhiều sự tích. Trước khi tổ phụ dân Do Thái xuất hiện, các sự tích như con người từ lò đất ra, vườn địa đàng, lụt đại hồng thủy, tháp xây chọc trời, đã lưu hành sẵn trong các nền văn minh Cổ Đại Trung Đông. Chân lý của các huyền thoại không nằm trong tính thực chứng của nó, nhưng trong cách nó thông diễn ý nghĩa hiện sinh của con người. Tính hữu hiệu của nó chính là sự kiện mỗi thế hệ tín hữu đều tìm ở đó những ý nghĩa và chiều sâu trong nỗ lực làm người. Đặc điểm của “sự tích Ađam” là sự khẳng định về mối giao ước giữa dân Do Thái với Thiên Chúa Yavê. Nói cách khác, “sự tích Ađam” là một lối giải thích thần học cho thấy một quan điểm rõ rệt về thân phận con người: một tạo vật ưu việt do bàn tay Thiên Chúa dựng nên, nhưng trong kiếp sống phải chịu đau khổ và gian nan vì sự chọn lựa của chính mình.

Các Chuyện Cổ Tích Về Nguồn gốc của sự dữ

Không chỉ mình sự tích “Ađam” trong Sách Sáng Thế Kinh Thánh, mà còn có ít nhất ba loại truyền thuyết khác nói về nguồn gốc của đau khổ và sự dữ trong kiếp người: truyền thuyết “Enuma Elish” của xứ Sumeria-Babylon, huyền thoại về các thần Hy-lạp, và sấm truyền Ophism theo Platon. Chúng ta hãy lược qua các truyền thuyết này.

Trước tiên, loại truyền thuyết “Enuma Elish” cổ xưa nhất tại xứ Sumeria-Babylon kể lại sự tạo dựng vũ trụ như là hậu quả của “cuộc chiến” giữa thần dữ và thần lành.  Lúc trời đất còn hỗn mang, có thần Marduk tranh chấp với một con rắn tiền sử.  Rắn bị tử thương, thần Marduk lấy hai mắt rắn làm mặt trời và mặt trăng, da sần sùi làm núi và đất, và lấy máu rắn làm thành người. Con người có sự sống là nhờ rắn tiền sử đổ máu. Vũ trụ (cosmos) là công trạng chiến thắng của vị đại thần, nên vị thần này phải được phụng thờ và trung thành tuyệt đối.  Những tế lễ ngày đêm tiến dâng trong đền thờ với mục đích duy trì sự quân bình và trật tự mà vị thần này đã lập nên và để ngăn ngừa hỗn loạn (chaos) trở lại (Thánh Vịnh 29:9-10).  Nếu sự dữ khởi xuất từ một quyền lực có sẵn từ nguyên thủy và sự thiện là chiến công của thần lành thì thần dữ sẽ luôn tìm cơ hội để phục kích, nhất là trong lúc thần lành “vắng mặt.”  Sự tích này giúp giải thích sự có mặt của “con rắn” đến cám dỗ loài người trong lúc Thiên Chúa “vắng mặt” trong vườn địa đàng. Một khi quyền lực của thần dữ nhập vào thế gian, mối liên hệ giữa con người với thiên nhiên bị rạn nứt và đất đai trở nên gai góc cằn cỗi, để lộ bản chất “rắn” của nó. Ngoài ra, khái niệm “thiết lập trật tự” trong các truyền thống tư tế khi nói về tạo dựng (phân cách trời và đất, ngày và đêm, nước và đất khô), hoặc trong các nghi thức hiến tế của những tổ phụ Do Thái cũng phản ảnh dấu vết của “thành tích” hoặc “chiến thắng” của thần lành trên thần dữ.

Loại truyền thuyết thứ hai đến từ văn minh Hy-lạp, kể lại nguồn gốc con người như nạn nhân của một “bi kịch.” Sự dữ và sự lành không là đối thủ với nhau như trong truyền thuyết Enuma Elish trên đây, nhưng cả hai cùng hiện diện trong quyền năng của các bậc thần thánh trên trời. Con người là nạn nhân của ganh tị hoặc tranh chấp giữa các thần quyền, không khác gì những tên nô lệ bị đem ra hí trường, thí mạng sống vật lộn với sư tử để giúp vui cho hàng vua chúa. Trong định mệnh oái oăm đó, kiếp làm người không có sự tự do thật sự mà chỉ bị ném vào cõi trần ai đầy chông gai.  Lúc còn thơ ấu ai cũng tưởng sẽ tìm được hạnh phúc lâu bền trên cõi đời này.  Nhưng khi bắt đầu hiểu biết và nếm mùi đời thì không tránh khỏi những đau thương khổ ải đang chờ sẵn. Không ai có thể trốn chạy định mệnh. Chỉ sau khi trải qua nhiều cay đắng đoạn trường thì con người mới thấu hiểu được ý nghĩa của cuộc sống. Sự tích thần thoại của Hy-Lạp giúp giải thích nông nỗi của Ađam và Evà sau khi ăn trái “biết lành biết dữ”. Cái giá phải trả cho sự trưởng thành và khôn ngoan trên đời này là kiếp sống đày đọa và gian nan, như Karl Jasper nói, “Suffering for the sake of understanding.”

Cả hai loại huyền thoại Enuma Elish và Hy-lạp trên đây xem thân phận con người hoàn toàn do bàn tay thần thánh quyết định, còn loại cổ tích thứ ba hay “sự tích Ađam” cho rằng chính con người là nguyên nhân của sự có mặt của tội lỗi ở thế gian khi con người không vâng phục Thiên Chúa, làm theo ý riêng của mình. Đây mới đích thực là sự tích về “con người” (Ađam). Qua sự mạo hiểm “ăn trái cấm,” con người không chỉ khám phá bản thân mình (mắc cỡ khi bị trần truồng), nhưng cả khả năng sinh tồn và tất cả những gian nan của kiếp người. Vì chỉ muốn nắm chủ quyền về sự “biết lành biết dữ,” con người đã rơi vào sự cám dỗ của “con rắn” và hậu quả là cuộc sống vô tư bị thay thế bằng mồ hôi và nước mắt, vật lộn với thiên nhiên để có miếng ăn, và chịu đau đớn để duy trì giống nòi. Cái giá phải trả cho sự chọn lựa làm theo ý riêng là con người đánh mất cơ hội trường sinh bất tử ban đầu và kiếp người từ đó trở nên một kiếp sống “đày đọa” ra khỏi nơi mà mình đã được tạo dựng nên.

Tuy nhiên sự tích “Ađam” cũng không thể che đậy được cái “ngoại tính” (externality) của tội lỗi, đó là sự cám dỗ đến từ bên ngoài con người. Sự dữ (con rắn) một cách nào đó đã len lỏi vào cõi sống vô tư của vườn địa đàng. Con người chỉ trở thành “tội nhân” khi tiếp tay với quyền lực của sự dữ (bị cám dỗ). Bản chất con người là thiện lành nhưng trong kiếp làm người lại dễ bị sa ngã vào vòng tội lỗi. Tội lỗi và sự dữ do đó không có quyền lực vô hạn trên con người, nhưng chỉ đươc phép xảy ra trong khuôn khổ “lịch sử” nào đó, với một sự khởi đầu (Ađam) và kết thúc (Đức Kitô). Thánh Phaolô đã khôn khéo đan dệt ngôn ngữ linh động của “sự tích Ađam” vào tư tưởng thần học của ngài khi khẳng định rằng, nếu tội của Ađam thứ nhất đem lại chết chóc và đày đọa cho con người, thì cái chết của Ađam thứ hai--Đức Kitô-- trên Thập Giá đem lại sự cứu rỗi và mở cửa thiên đàng cho nhân loại.  Và, nếu “miếng ăn” thứ nhất (trái cấm) làm đánh mất khả năng bất tử thì “miếng ăn” thứ nhì (Mình & Máu Đức Kitô) đem lại sự sống đời đời cho con người.

Cả ba loại truyền thuyết Enuma Elish, Hy-lạp, Ađam không nói đến “hồn” của con người rõ ràng cho bằng sấm truyền “Orphism” mà Platon đã đúc kết thành sự tích “hang động” trong sách “Republic.”  Theo Platon, vật chất và xác thịt là nguồn gốc của tội lỗi và đau khổ trên đời này. Con người như con chim đang bị nhốt trong lồng “thể xác,” đam mê với những lộng lẫy giả tạo chung quanh. Càng theo đuổi thỏa mãn dục vọng bao nhiêu thì lại càng thất vọng bấy nhiêu, vì bản chất con người không phải là thể xác mà là linh hồn. Muốn thoát khỏi ngục tù thể xác, con người phải giác ngộ, nhận định chân lý và trở về với cái gốc linh thể của mình. Triết học và tôn giáo có thể giúp con người tỉnh thức, can đảm quay lưng nhìn vào ánh sáng ở cửa hang, tức là nguồn của mọi sự chân, thiện, mỹ trên đời này. Ảnh hưởng của truyền thuyết này được thấy rõ qua thái độ xung đột giữa thân xác và linh hồn trong một số triết thuyết (Plotinus) và thần học tu đức Kitô giáo (nhị nguyên). Thể xác được xem như là chướng ngại vật và chỉ linh hồn mới có khả năng trường tồn và đưa con người về cuộc sống vĩnh hằng. Thánh Augustinô cũng cho rằng linh hồn là “cửa sổ” để chúng ta nhìn vào cõi thiêng liêng.

Khi so sánh các truyền thuyết về nguồn gốc sự dữ và thân phận con người trên đây, chúng ta thấy rõ vai trò vượt trội của con người trong sự tích Ađam.  Đau khổ trong kiếp người không phải do thần thánh, định mệnh gây nên hoặc từ thân xác mà ra.  Trái lại, con người đã “chọn” cuộc sống trần ai cho chính mình. Qua “kinh nghiệm” này, con người khám phá ra mình là một hữu thể chưa hoàn tất, còn què quặt nhưng lại có khát vọng muốn trở thành như Thượng Đế.  Theo ngôn ngữ linh động của huyền thoại, đây không phải là một sự chọn lựa tự do tuyệt đối mà là hậu quả của một sự cám dỗ từ bên ngoài, một kẽ hở trong trật tự của vũ trụ (cosmos) tốt lành mà Thiên Chúa đã thiết lập và là một khủng hoảng trong kiếp hiện sinh. Sự tích “Ađam” đã dùng hình ảnh “con rắn” và “trái cấm” như là những biểu tượng nền tảng cho sự bất ổn này.   

Ý Nghĩa Của “Con Rắn” Và “Trái Cấm”

Tại sao Kinh Thánh chọn loài “rắn” làm hiện thân cho Satan? “Trái cấm” có ý nghĩa hiện sinh gì trong cuộc sống không? Hình ảnh “rắn” rất quen thuộc trong Cựu Ước. Kinh Thánh dùng nhiều danh từ để nói đến rắn như: nahash (rắn nói chung), saraph (rắn biết bay), shephiphon (rắn ở vùng các nóng của sa mạc), v.v. Đa số các danh tự này được lấy từ Ai-Cập, nơi mà tổ tiên người Do Thái đã lưu đày gần bốn thế kỷ.  Cái tên “Satan” (Quỉ Vương) có sẵn trong các tôn giáo cổ xưa, nhưng Do Thái là tôn giáo đầu tiên cho rắn đội lốp Satan đến cám dỗ con người ăn trái cây “biết lành biết dữ.”  Theo dòng sử liệu, có lẽ lần đầu tiên rắn xuất hiện là khi Môisen và Aaron ném gậy xuống đất hóa thành rắn để Pharao cho dân Chúa ra đi tự do.  Kế đến, trong cuộc hành trình trong sa mac, có nhiều người bị rắn cắn.  Môisen đúc rắn đồng treo lên cây cao, hễ ai bị rắn cắn nhìn vào đó sẽ được khỏi. Có thể hiểu “bị rắn cắn” như là biểu tượng cho sự chùn chân, chán nản không muốn tiếp tục cuộc hành trình qua sa mạc. Trong bốn mươi năm lưu lạc trong sa mạc, dân Do Thái  có lẽ đã tiếp xúc, đụng độ hoặc muốn đồng hóa với các bộ lạc thờ rắn sống trong vùng, và Môisen phải đúc rắn đồng riêng để giúp dân Do Thái lên tinh thần mà tiếp tục cuộc hành trình về đất hứa. Ngày nay các nhà khảo cổ đã tìm thấy được một số rắn đồng tại vùng mỏ đồng sa mạc Araba.

Ngoài Kinh Thánh ra cũng có nhiều chuyện thần thoại khác về rắn đã được lưu hành trước đó rất lâu. Chuyện thần thoại Gilgamesh ở xứ Sumeria, kể lại vua Utnaphistim đã tìm được một loại “cây trường sinh”, nhưng trước khi có dịp ăn “quả trường sinh” thì một con rắn đã đánh cắp cây quí khỏi tay nhà vua, và từ đó không ai có thể sống đời đời nữa. Sự tích này đ được lưu hành trong vùng Trung Đông nhiều thế kỷ trước khi Abraham--tổ phụ của người Do Thi xuất hiện trên sân khấu lịch sử. Huyền thoại về rắn cướp lấy cơ hội trường sinh bất tử để lại dấu vết trên sự tích Satan hoá thân con rắn đến cám dỗ Evà, từ đó loài người mất đi cơ hội sống đời đời. Ở mức độ biểu tượng, “trái cấm” vốn mang đến sự chết sẽ được thay thế bằng “Mình và Máu” của Chiên Thiên Chúa. Cũng thế, Evà, người Nữ đem trái cấm đến cho Ađam ăn, sẽ được thay thế bằng Đức Trinh Nữ Maria, người “chưa hề biết đến một người nam.” Ngoài ra, cuộc chiến giữa rắn tiền sử và thần Marduk nói lên nhu cầu hy sinh đổ máu của “thần thánh” để loài người được sống. Khái niệm thần thánh tự hiến thân trở thành của lễ hiến tế đem lại sự sống cho nhân loại có lẽ không xa lạ cho lắm đối với hậu cảnh văn hóa và tôn giáo của Cựu Ước.

Với quan niệm của người Á Đông xem rồng như la vật linh thiêng, thì dân tộc Trung Đông cũng tôn thờ rắn vậy. Rắn đại diện cho sự khôn ngoan, nhanh nhẹn và cả sự nguy hiểm, trả thù độc địa nếu cần.  Dân tộc xứ Syria xem rắn như một thần phù trợ. Các nhà khảo cổ đã tìm thấy tại các đền thờ, cổng thành, có tạc hình “đầu rắn” vì họ tin thần rắn sẽ cắn chết những kẻ xâm lăng và bảo vệ dân chúng khỏi hiểm nguy bệnh tật.  Khi thấy rắn lột da nhưng vẫn sống, người ta tin rắn có bí quyết trường sinh bất tử. Người Hy Lạp có thần Asklepios chữa bệnh mang dấu hiệu hình rắn mà ngày nay vẫn thấy tại các tiệm thuốc tây, văn phòng bác sĩ, hoặc nhà thương. Người Việt tin là rắn có trí nhớ và khả năng trả thù như trong chuyện Nguyễn Trãi giết cả tổ rắn hổ mang và sau này bị rắn trở lại báo oán (tru di tam tộc). Người dân quê miền Nam cho rằng mật rắn hay cao rắn đều có thể dùng để trị mọi chứng bệnh như đau lưng, nhức mỏi.

Vì sự khôn ngoan của rắn, Satan đội lốt rắn để dụ dỗ con người ăn “trái cấm”. Nhưng “trái cấm” có ý nghĩa gì không? Cũng như cách dùng dụ ngôn mà Đức Giêsu dùng để nói về nước trời, thì ngôn ngữ huyền thoại của Sách Sáng Thế không phải là loại ngôn ngữ cứng rắn của siêu hình học.  Muốn hiểu ý nghĩa sâu sắc của nó chúng ta cần phải đặt mình vào trong bối cảnh và ngữ cảnh của trình thuật.  Vì thế, ở đây chúng ta hãy thử giải thích “trái cấm” qua lăng kính hiện sinh.  Nếu xét theo kinh nghiệm trưởng thành của mỗi người, chúng ta có thể diễn giải ý nghĩa của “trái cấm” qua ba giai đoạn sau đây. Trước tiên, “vườn địa đàng” đại diện cho tuổi còn bé thơ, sống trong vô tư và trần truồng, mọi miếng ăn thức uống đều lệ thuộc vào cha mẹ, chỉ biết chơi đùa với thú vật, mỗi buổi chiều tà cha mẹ dẫn đi chơi hay ngồi nghỉ dưới bóng mát của hàng cây. Giai đoạn “bị cám dỗ” nói lên những khủng hoảng thường gặp phải trong tuổi dậy thì.  Đây là cái tuổi thích mạo hiểm, tự do và chống đối nhưng không màng đến hậu quả xấu. Ở giai đoạn này, tính tình rất nông nổi và bồng bột, dễ bị quyến rũ và sa ngã về tính dục và tình cảm. Cuối cùng, giai đoạn “sống ngoài vườn địa đàng” nói lên sự trưởng thành, đầy đủ nghị lưc và trách nhiệm để tự lập.  Đàn ông tự kiếm sống với mồ hôi nước mắt của chính mình, đàn bà mang nặng đẻ đau, nhưng cả hai sẵn sàng chấp nhận mọi vất vả để tạo dựng mái ấm gia đình riêng cho họ. Vườn địa đàng có thiên thần “cầm gươm đứng gác cửa” ngăn chận không cho con người trốn chạy trách nhiệm hay trở về với tổ ấm của cha mẹ, nhưng phải đương đầu với thực tại đau khổ và biết giá trị của sự chọn lựa để tiếp tục duy trì giống nòi. Nói cách khác, “trái cấm” đánh dấu một khúc quanh quan trọng trong đời người. Khi lớn lên không tránh khỏi những sai lầm hay sa ngã, nhưng chỉ qua đó, con người mới làm chủ vận mệnh và chịu trách nhiệm cho sự chọn lựa của mình. Đó có thể là lý do tại sao “trái cấm” được gọi là trái của “cây biết lành biết dữ.”

Sư Tích Ađam Và Tội Nguyên Tổ  

Sau khi sơ lược qua các truyền thuyết về sự dữ và ý nghĩa hiện sinh của “trái cấm,” chúng ta có thể phân tích ý nghĩa của “sự tích Ađam” và “tội nguyên tổ”. Trước tiên, việc ăn “trái cấm” trong sự tích Ađam chưa phải là một “tội” nếu hiểu theo định nghĩa của thần học. Để có thể bị quy kết, con người phải phạm một điều luật nào đó, với sự tự do chọn lựa và hiểu biết việc làm của mình. Tội trọng cắt đứt mối liên kết giữa con người với Thiên Chúa và tha nhân. Hành động ăn “trái cấm” chưa cắt đứt hoàn toàn mối liên hệ giữa con người với Thiên Chúa, nhưng chỉ là một sự khủng khoảng hiện sinh, làm thay đổi quan niệm và thái độ của con người về tri thức, luân lý, đạo đức. Qua biến cố đó, con người từ bỏ “mái ấm” của cha mẹ và phải ra đi để tạo một gia đình riêng cho chính mình. Do đó “trái cấm” vừa là một sự khủng hoảng, vừa là khởi đầu của một giai đoạn mới trong cuộc sống. Dân Do Thái đã tận dụng những kinh nghiệm sa ngã, những khúc quanh trong đời, và khủng hoảng trong mối liên hệ gia đình để diễn đạt mối liên kết của họ đối với Yavê. Nếu hiểu sự kiện “bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng” là như một “hình phạt” thì xét ra, kiếp người phải đứng trước một ngã ba khó xử: Thiên Chúa muốn con người sống mãi trong ấu trĩ và ngây thơ, hay muốn họ được trưởng thành hiểu biết với tinh thần trách nhiệm? Con người nên tiếp tục sống trong sự vô tư như mọi loài thú vật trong vườn địa đàng, hay nên mạo hiểm “biết lành biết dữ,” cho dù sự chọn lựa sẽ đem đến nhiều đau khổ gian truân? Ađam và Evà đã “chọn” con đường trần ai bên ngoài vườn địa đàng và đối diện với thực tại trớ trêu của kiếp người. Vậy xét theo ngôn ngữ linh động của huyền sử, thì “tội” của Adam cũng chưa hoàn toàn là tội, và “hình phạt” cũng không hẳn là hình phạt thật sự, nhưng là một sự khúc quanh hiện sinh, nếu không vượt qua con người sẽ mãi mãi sống trong tình trạng ấu trĩ và ngây thơ.
Mặt khác, xét theo ngôn ngữ thần học của thánh Augustinô thì không chỉ Ađam và Evà đã khởi đầu “tội nguyên tổ”, mà cả loài người cũng đều mắc lấy tội này. Mục tiêu nguyên thủy của tín điều “tội nguyên tổ” là để sửa sai thái độ ngạo mạn của thuyết Pelagiô cho rằng chỉ cần tự do và khả năng tu đức, con người tự mình có thể đạt được sự cứu rỗi! Augustinô phản biện lại khi cho rằng phải có ân sủng Thiên Chúa trước thì sự hợp tác của con người mới là hiện thực vì tất cả loài người khi sinh ra thì đã mang dấu ấn của nguyên tội.  Lối diễn giải “khiêm tốn” của Augustinô vô tình đã giới hạn sự hiểu biết về tội nguyên tổ vào trong khuôn khổ “sinh học” (biological), đánh mất đi bản tính xã hội và sinh thái (social & environmental) của tội lỗi.  Tại Công Đồng Carthage (418), Augustinô tuyên bố rằng loài người vì “cùng dòng dõi với Ađam” đã sinh ra trong tội nguyên tổ và không ai được cứu rỗi nếu không tiếp nhận ân sủng đến từ Đức Kitô. Hơn mười một thế kỷ sau, Công Đồng Trentô (1545-63) cũng lập lại ngôn ngữ “cùng dòng dõi với Ađam” nhưng với mục đích xác định bản chất tốt lành và sự tự do của con người, và bác bỏ chủ trương muốn đồng nghĩa bản tính hay sa ngã với tội tổ tông (Phái Cải Cách Tin Lành). Lập trường của Giáo hội Công giáo là bí tích rửa tội xóa bỏ tội nguyên tổ, nhưng bản tính hay sa ngã (concupiscence) vẫn tiếp tục trong cuộc sống.  Do đó, muốn thánh hóa cuộc sống, mọi tín hữu cần phải tham dự tích cực vào các bí tích, nhất là bí tích thanh tẩy—đây là điều mà thần học Cải Cách đã phản đối.

Khi tiếp tục dùng ngôn ngữ “cùng dòng dõi với Ađam”, giáo hội muốn bảo toàn tính chất “duy nhất” của nguồn gốc con người. Tính chất “đại đồng” của tội nguyên tổ không nhất thiết phải bị gò ép vào trong ý nghĩa “sinh học” của thánh Augustinô. Trái lại, sự tích Ađam cho thấy tội cũng là một sự xâm nhập từ bên ngoài. Ađam và Evà bị cám dỗ bởi một mãnh lực thu hút từ bên ngoài: con “rắn” đã giới thiệu khái niệm luân lý (cây biết lành biết dữ) vào tiềm thức và ngôn ngữ của loài người. Đó là lý do tại sao Công Đồng Vatican II nói về hai nguồn gốc của tội lỗi: sự yếu đuối và chọn lựa sai lầm của cá nhân và môi trường xã hội sa đọa mà con người đang sống. Hiện nay, cũng có hai quan điểm thần học khác biệt về tội nguyên tổ: (1) Quan điểm “cá nhân” cho rằng tội lỗi là kinh nghiệm riêng tư trong thực tại đời sống mọi người; vì ai cũng có tội nên ai cũng có trách nhiệm thánh hóa bản thân để lãnh nhận ơn cứu rỗi của Thiên Chúa; (2) Quan điểm “sinh thái” giải thích rằng con người sống trong xã hội với đầy dẫy bất công, ích kỷ, kỳ thị, truyền đạt từ đời này qua đời kia; con người không tránh khỏi bị ô nhiễm (Đời cha ăn mặn, đời con khát nước). Nói chung, tính chất “đại đồng” của tội nguyên tổ cần được diễn giải một cách cẩn thận: một bên, sự yếu đuối của con người cần phải được nâng đỡ bằng ân sủng Thiên Chúa (bí tích); còn bên kia, sống trong môi trường sa đọa, con người phải được giáo dục để có tinh thần trách nhiệm trong khi chọn lựa.
Kết

Nếu nhìn một cách bao quát, sự tích Ađam nối kết loài người vào cùng một thân phận, lịch sử và ơn cứu độ. Sống trong xã hội đa đạng, đức tin lẫn lộn với tội ác, con người khủng bố sát hại nhau vì tôn giáo, khó mà từ chối thực tại của tội lỗi trong xã hội. Chúng ta cần hợp tác với nhau để tìm một giải pháp chung. Nhưng giải pháp cũng tùy thuộc theo cách diễn giải tội nguyên tổ. Theo kinh nghiệm hiện sinh, tội nguyên tổ làm cho con người sống trong ngờ vực, tự trói mình vào trong những an ninh giả tạo, không dám mạo hiểm theo tiếng gọi của đức tin. Theo quan điểm của môi sinh, tội nguyên tổ là khuynh hướng muốn tách rời khỏi mạng lưới ân sủng Thiên Chúa, thay vì xem mình là một phần tử trong tiến trình biến hóa chung của muôn loài thụ tạo, thì muốn chinh phục tha nhân và môi sinh để đem lại thỏa mãn cho các tham vọng riêng tư. Theo quan niệm giới tính, chủ nghĩa trọng nam khinh nữ, buộc nữ giới chấp nhận vai trò thụ động hay một bản ngã không xứng đáng là một đại diện chân chính cho Đức Kitô, cũng là hậu quả của tội nguyên tổ.

Sự tích Adam giúp chúng ta có một cái nhìn thực tế và bao quát hơn về con người. Cõi địa đàng không ngoài mục đích khẳng định bản chất tốt lành của con người. Loài người cần chấp nhận thực tại của tội lỗi, tận dụng mọi tài năng Thiên Chúa đã ban cho và tiếp tay xây dựng một xã hội công bằng và bái ái. Tự do thì luôn gắn bó với trách nhiệm, nếu không, có thể đưa đến những hậu quả rất tai hại. Xã hội càng văn minh và kỹ thuật càng tân tiến thì khả năng tiêu diệt và tàn phá sự sống và môi sinh càng khốc liệt.  Sự tích Adam để lại cho con người một “ký ức phê phán” về kinh nghiệm hiện sinh qua đó ta khám phá một bài học quí giá về hành trình làm người. Con người có khát vọng muốn vượt lên trên tất cả để làm chủ chính mình, trở thành một thượng đế và nắm trong tay tri thức và quyền tự quyết tuyệt đối. Đó là điểm yếu của kiếp hiện sinh. Nhưng trong thực hành con người sẽ khám phá đây là một hành trình đầy truân chuyên và bất khả thi vì tính chất què quặt và bất toàn của mình. Khái niệm “tự do khỏi” (freedom from) cần phải được bổ túc bằng “tự do để” (freedom to) theo đuổi lý tưởng cao đẹp của con người và xã hội.  Con người cần học các lỗi lầm trong quá khứ và biết nhìn về tương lai với niềm tin và hy vọng rằng chỉ có Thiên Chúa, Đấng Xóa Tội trần gian, mới có thể thánh hóa và gội sạch mọi đau khổ và tội lỗi của kiếp người.

 

Tài liệu tham khao:

-Theodicy from the Phenomenological Perspective of Paul Ricoeur, Joseph Tân Nguyễn (Catholic Theological Union, Chicago, 1989).

-Symbolism of Evil, Paul Ricoeur, 1967.

 

Nguồn tin: