Những Dấu Ấn Cựu Ước Về Thiên Chúa Ba Ngôi (1)

Fri,23/10/2020
Lượt xem: 2862

Dẫn nhập

Khi đề cập về việc nhận biết Thiên Chúa, thánh Augustinô nói rằng:

“Điều cần phải nói ra đó là thành thật thú nhận về sự bất tri hơn là sự hiểu biết võ đoán. Tiến gần một chút về Thiên Chúa nhờ lý trí là một phúc lành lớn lao; còn để hiểu trọn vẹn Thiên Chúa là điều bất khả thi.[1]

Bức tranh nổi tiếng thế giới của Andrew Roublev (1360-1430) trình bày cảnh tượng về sự đón tiếp của ông Ápraham và bà Sara dành cho ba thiên thần ngồi chung quanh bàn tiệc (St 18,1-15). Đây là một hình ảnh thúc đẩy người Kitô hữu suy tư nhiều về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Chén rượu ở trên bàn là biểu tượng của bí tích Thánh Thể, nhờ biến cố cứu độ và mạc khải về cuộc khổ nạn, chết và phục sinh của Chúa Kitô.

Icône này cũng có thể làm cho chúng ta suy tư về những cách thế mà niềm tin và Kinh Thánh Cựu Ước đã giúp các môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu giải thích và rao giảng mầu nhiệm trung tâm của Kitô giáo, đó là mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi mà họ đã có kinh nghiệm và đáp trả. Sự hiểu biết về Cựu Ước là cần thiết để nắm vững mạc khải Ba Ngôi và tính mới mẻ của Tân Ước.

Cựu Ước tiền chứa những cách thức và hình ảnh sẽ được sử dụng để trình bày về mầu nhiệm Ba Ngôi. Nếu nhìn một cách tiêu cực, một nền thần học mà phớt lờ hoặc hạ thấp Cựu Ước có thể chỉ là một nền thần học tự thân hoàn toàn thiếu sót. Có điều gì đó chính yếu bị đánh mất về ý nghĩa mà chúng ta hiểu về Ba Ngôi nếu chúng ta phớt lờ những nguồn gốc thuộc Do Thái của Chúa Giêsu và những môn đệ đầu tiên của Người. Cựu Ước đã chứa đựng nhiều quan niệm và hình ảnh nổi bật như Thiên Chúa là Cha, sự Khôn Ngoan, Lời và Thần Khí của Thiên Chúa. Đây là những dấu ấn về mạc khải mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Trong phần này chúng ta sẽ lần lượt tìm hiểu về những hình ảnh này.

I. Thiên Chúa Như Là Cha

Ngày nay nhiều tranh luận cho rằng khi gọi Thiên Chúa là Cha, giáo huấn, thần học cũng như phụng vụ Kitô giáo nhằm bảo vệ và gìn giữ hệ tư tưởng “gia trưởng,” đồng thời loại bỏ khuynh hướng đề cao người phụ nữ trong xã hội và Giáo Hội.

Bởi thế, trong chương sau chúng ta sẽ bàn trực tiếp vấn đề này. Chương này sẽ tìm hiểu về những nguồn gốc Kinh Thánh lâu đời nhất liên quan đến tên gọi Thiên Chúa là Cha, một tên gọi đã minh nhiên có một vị trí trung tâm trong Kinh Tin Kính, phụng vụ, đời sống và cả nghệ thuật Kitô giáo.

Để bắt đầu nghiên cứu về những dữ kiện đặc biệt từ Cựu Ước, chúng ta cần nhớ lại rằng trong Do Thái Giáo, Kitô Giáo và Hồi Giáo không có diễn tả Thiên Chúa như một nữ thần. Đây là nét đặc trưng của những tôn giáo độc thần này[2] phân biệt với những nền văn hóa cổ xưa đã diễn tả các vị thần linh bằng ngôn ngữ như: nữ thần Tiamat trong thời kỳ Enuma Elish thuộc Babylon, nữ thần Asherah trong tôn giáo của người Canaan, nữ thần Fricka trong thiên sử thi của người Bắc Âu, và nữ thần Hera là chị và vợ của thần Zeus trong thần thoại Hy Lạp, được đồng hóa là nữ thần Juno do người La Mã.

Trong Kinh Thánh Cựu Ước, Thiên Chúa hiện hữu vượt trên phái tính và là Đấng hoàn toàn siêu việt. Dĩ nhiên, đôi khi nếu những hình ảnh về người nam và người nữ được áp dụng cho thần linh, thì nó không có nghĩa Thiên Chúa là đàn ông hay đàn bà và Người siêu việt hơn mọi lối diễn tả của thụ tạo. Cựu Ước cũng đã cấm con người không được tạc hình tạc tượng để diễn tả về hình ảnh Thiên Chúa. Tiên tri Hôsê trình bày ý nghĩa tính siêu việt của Thiên Chúa khi Người nói với ông: “Ta là Thiên Chúa, chứ không phải người phàm. Ở giữa ngươi, Ta là Đấng Thánh” (Hs 11,9). Điều này muốn nói rằng hữu thể của Giavê hoàn toàn thánh thiện và khác biệt với hữu thể con người. Vì thế, Cựu Ước cấm dùng những hình ảnh vật chất để áp dụng cho Thiên Chúa và điều này cũng ảnh hưởng đến ngôn ngữ Cựu Ước dùng để diễn tả thần tính Thiên Chúa.

Trước khi tìm hiểu trong Cựu Ước lối sử dụng ngôn ngữ ẩn dụ (metaphor) “Thiên Chúa như là Cha,” chúng ta cũng cần lưu ý rằng Cựu Ước cũng đã nói về Thiên Chúa như một người “Mẹ,” nghĩa là sử dụng những sự tương tự của người mẹ để áp dụng cho Thiên Chúa. Thiên Chúa được so sánh một cách rất sinh động như một người phụ nữ đau đớn trong lúc sinh con (x. Is 42,14), hay so sánh Thiên Chúa như một người bà đỡ (x. Tv 22,9-10). Những lối so sánh về người mẹ và việc sinh con cũng được dùng trong Ngũ Thư (x. Ds 11,12; Đnl 32,18). Như một người mẹ thường làm, Thiên Chúa muốn an ủi dân đang gặp đau khổ (x. Is 66,13). Tình yêu Thiên Chúa vượt trên cả tình yêu của một người phụ nữ dành cho đứa con của mình: “Có phụ nữ nào quyên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ” (Is 49,15). Sự dịu dàng của Thiên Chúa vượt trên sự dịu dàng của một người mẹ được làm nổi bật trong sách Huấn Ca: “Con sẽ nên như người con của Đấng Tối Cao, và Người sẽ thương con hơn cả mẹ của con nữa” (Hc 4,10).

Để bắt đầu, chúng ta cần nhớ rằng những so sánh khác nhau thế nào từ lối ẩn dụ này. Trong một hoàn cảnh đặc biệt và để làm sáng tỏ điều muốn nói, người ta sử dụng một sự so sánh bằng cách dùng hình ảnh hay quan niệm thông thường của người đương thời để nói về một điều gì đó hay về một ai đó. Theo cách thức đó, Isaia (Is 42,14) nói về sự can thiệp “mạnh tay” của Thiên Chúa giống như một người sản phụ lâm bồn, rên xiết và thở hổn hển khi sinh con. Phép ẩn dụ nới rộng việc sử dụng ngôn ngữ vượt trên cả ý nghĩa “thông thường” của nó để tạo ra những viễn tượng mới của thực tại nhờ việc quả quyết một căn tính giữa hai đối tượng so sánh. Chẳng hạn như lối so sánh: “Thiên Chúa là Cha đối với dân chúng.” Những lối trình bày sau này chứa đựng những mạc khải quan trọng về Thiên Chúa, được Cựu Ước làm nổi bật và rồi sẽ được phát triển trong cuộc đời của Chúa Giêsu và trong các thế hệ đầu tiên của Kitô giáo.

Trong Kinh Thánh Cựu Ước, Thiên Chúa được biết đến qua rất nhiều danh xưng khác nhau, nhưng YHWH là danh xưng vượt trên tất cả các danh xưng khác (x. Xh 3,14; 6,6-8). Đây là danh xưng linh thánh nhất được sử dụng khoảng 6.800 lần trong Cựu Ước, cả hai hình thức kết hợp như YHWH Malak (“Vua”) (x. Tv 93,1). Một cách tổng quát, Thiên Chúa cũng được biết đến với danh hiệu là EL (Thiên Chúa Toàn Năng), và EL Shaddai: “Thiên Chúa, Đấng Thánh trên Núi” (x. Xh 6,3; Ds 24,4-16), danh xưng Thiên Chúa được diễn tả ở số nhiều là Elohim “Thiên Chúa các thần linh” (x. St 1,1), và El Elyon (Thiên Chúa Đấng Tối Cao). Trong cuốn sách “God is King: Understanding and Israelite Metaphor,” Marc Zvi Brettler cho rằng:

“Thiên Chúa là YHWH Malak” là lối ẩn dụ trổi vượt dành cho Thiên Chúa trong Cựu Ước, xuất hiện thường xuyên nhiều hơn so với lối ẩn dụ “Thiên Chúa là tình yêu, hay Thiên Chúa là hôn phu” (x. Gr 3; Ed 16 và Hs 2) hoặc “Thiên Chúa là một người cha” (Đnl 32,6; Is 63,16; Gr 3,19). Chúng ta sẽ tìm hiểu ý nghĩa của lối so sánh Thiên Chúa là Cha, là một trong những tước hiệu đặc biệt đáng quan tâm ở đây.”[3]

Ít nhất có đến hơn 20 lần, Thiên Chúa được gọi hoặc được nói đến như là Cha trong Cựu Ước. Chúng ta sẽ lần lượt tìm hiểu ý nghĩa của tước hiệu này trong các sách thánh Quy Điển Cựu Ước.

1. Thiên Chúa như là Cha trong các sách Tiền Quy Điển[4]

Một trong những bản văn cổ nhất trong đó Thiên Chúa được gọi là Cha đến từ một bài hát được gán cho Môsê: “Hỡi dân tộc ngu si khờ dại, ngươi đáp đền ơn Đức Chúa vậy sao? Há chính Người chẳng phải cha ngươi, Đấng dựng nên ngươi, Đấng tạo thành, củng cố?” (Đnl 32,6). Ở đây và ở những nơi khác trong chương cuối cùng của Đệ Nhị Luật, Môsê được mô tả như là sự nhớ lại sợi dây giao ước gần gũi giữa Thiên Chúa và dân Người. Do việc đi lại với những tôn giáo lân cận khác, dân riêng khước từ nguồn gốc đích thực của mình và hành xử giống như người con bất hiếu. Lòng trung thành yêu thương và lòng thương xót của Thiên Chúa hoàn toàn trái ngược với sự bất trung ngang bướng của dân Israen. Đây là bản văn từ Đệ Nhị Luật minh chứng cho thấy người Cha như thế nào, khi được dùng để chỉ về Thiên Chúa, thường quy chiếu về tương quan giao ước của dân riêng với Thiên Chúa, Đấng đã giải thoát họ khỏi cảnh lưu đày và làm cho họ được gọi là con Thiên Chúa (con đầu lòng) (x. Xh 4,22-23; Hs 11,1) hoặc được gọi là “con trai và con gái của Thiên Chúa” (x. Đnl 32,19; Is 1,2-23; Hs 1,2; 30,1). Thiên Chúa sinh thành họ (Đnl 32,18) nhờ việc chọn và nhận họ làm con. Đây là sự chọn lựa lịch sử của Thiên Chúa và không phải nhờ bất cứ loại hoạt động tính dục và sinh sản thế lý nào (như trong trường hợp của các thần nam thần nữ ở xung quanh quốc gia), đã làm cho Thiên Chúa trở thành người Cha của họ.

Một đoạn văn sau này nhắc lại lời hứa về giao ước của Thiên Chúa, được diễn tả trong một sấm ngôn qua miệng tiên tri Nathan gửi cho vua Đavít:

“Khi ngày đời của ngươi đã mãn và ngươi đã nằm xuống với cha ông, Ta sẽ cho dòng dõi ngươi đứng lên kế vị ngươi – một người do chính ngươi sinh ra, và Ta sẽ làm cho vương quyền của nó được vững bền. Chính nó sẽ xây một nhà để tôn kính Ta, và Ta sẽ làm cho ngai vàng của nó vững bền mãi mãi. Đối với nó, Ta sẽ là cha, đối với Ta, nó sẽ là con. Khi nó phạm lỗi, Ta sẽ sửa phạt nó bằng roi của người phàm, bằng đòn của con người. Tình thương của Ta không rời khỏi nó, như Ta đã cho rời khỏi Saun, kẻ Ta đã bắt rời khỏi mặt ngươi. Nhà của ngươi và vương quyền của ngươi sẽ tồn tại mãi mãi trước mặt Ta; ngai vàng của người sẽ vững bền mãi mãi” (2 Sm 7,12-16).

Trong thời Ai Cập cổ đại và những nơi khác ở Trung Đông, những người cầm quyền được gọi là “con Trời.” Từ đó sẽ không ngạc nhiên khi tìm thấy lời hứa của Thiên Chúa trong 2 Samuel về một vương quyền Đavít tồn tại đến muôn đời khi nói về Salomon, con của Đavít và người kế vị. Các Vịnh Gia của nhà vua suy tư niềm tin mà vua được xức dầu, được tuyển chọn một cách thần linh và được xem như là con nhận của Thiên Chúa: “Con là con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra con” (Tv 2,7). Thánh Vịnh này quy chiếu về ngày mà vua sẽ được đặt làm người lãnh đạo của Dân Chúa.

Vua có vai trò lãnh đạo nhờ sự tuyển chọn thần linh và sức mạnh của Thiên Chúa, để hoàn thành mục đích của Thiên Chúa. Được ngự trên núi Sion nơi người ta tin rằng Thiên Chúa hiện diện (Tv 2,6), hoàng tử Đavít được gọi là “con Thiên Chúa” và Thiên Chúa là Cha của vua. Tước hiệu “con Thiên Chúa” ở đây không có nghĩa là con theo thể lý (nghĩa đen là con được Thiên Chúa sinh ra), cũng không theo nghĩa được “thần hóa” hoặc được biến thành một vị thần.

Nhờ việc gọi Thiên Chúa là Cha, trong sấm ngôn mình, Nathan trình bày tính vô điều kiện của lời hứa và tương quan phụ tử này (x. 2 Sm 7). Theo đó, sự chọn lựa của Thiên Chúa đối với vương quyền Đavít giống như sự chọn lựa của Thiên Chúa đối với toàn thể dân riêng. Thiên Chúa thiết lập một tương quan bền vững: Thiên Chúa sẽ luôn giữ lòng trung thành như người Cha đối với dân và vua của họ. Thiên Chúa kỷ luật dân và vương triều của họ nhưng Người sẽ làm như thế với một tình yêu bao la. Sau thời kỳ Lưu đày ở Babylon, sự thất bại của những cố gắng để tái lập triều đại Đavít đã tạo ra những vấn đề cho lời hứa mà Nathan loan báo.

Chúng ta tìm thấy sự giống nhau giữa 2 Sm 7,12-15 và 1 Sb 17,11-15; 22,9-10; 28,5-6, một công trình xuất hiện và tồn tại khoảng năm 350 đến 300 TCN và đôi lúc bản văn này như lấy lại từng chữ một từ sách của Samuen và sách Các Vua nhưng không đề cập đến chúng một cách cụ thể. Cả ba bản văn trong 1 Sb đều lặp lại sấm ngôn của Nathan và lời hứa của Thiên Chúa là Cha đối với vua, người được Thiên Chúa nhận như là con. Sự thân mật của tương quan “Thiên Chúa – vua” được nói đến trong cả ba đoạn của 1 Sb. Trong đoạn thứ nhất, mọi quy chiếu về kỷ luật thì hoàn toàn bị bỏ qua. Đoạn thứ hai có mục đích nhằm khích lệ Salomon tuân giữ luật của Thiên Chúa, khi đưa ra những lời cảnh báo về điều sẽ xảy ra nếu vua mắc phải sai lầm như thế:

“Chỉ mong sao Đức Chúa ban cho con được khôn ngoan sáng suốt khi đặt con lãnh đạo Ítraen, để con tuân giữ lề luật của Đức Chúa, Thiên Chúa của con. Chắc chắn con sẽ thành công, miễn là con để tâm thi hành các quy định và lề luật mà Đức Chúa đã chỉ thị cho ông Môsê truyền lại cho Ítraen. Phải can đảm và cương quyết! Đừng sợ hãi, đừng nao núng!” (1 Sb 22,12-13).

Đoạn thứ ba cũng thêm vào một số lời từ Thiên Chúa, Đấng đòi hỏi sự trung thành với lề luật: “Ta sẽ củng cố vương quyền của nó đến muôn đời nếu nó cố gắng thi hành mệnh lệnh và luật pháp của Ta như hiện nay” (1 Sb 28,7). Ở đây có sự báo trước về những hậu quả xấu nếu nhà vua mắc sai lầm trong quyết định, nhưng không có nói một cách thẳng thắn về việc kỷ luật đi theo điều tội lỗi. Điều này chúng ta tìm thấy trong 2 Sm và trong phiên bản của nó nơi sấm ngôn của Nathan. Trong khi 1 Sb giảm nhẹ yếu tố kỷ luật trong lối so sánh theo kiểu của người cha, kết quả là để làm sáng tỏ hơn Thiên Chúa là như thế nào và Người sẽ là một người cha nhân hậu và luôn chăm sóc con cái.

Các Thánh Vịnh mang lại ít nhất hai đoạn trực tiếp và gián tiếp nói (như trong Tv 2) về tình phụ tử của Thiên Chúa. Rõ ràng đây là kết quả của một lịch sử dài, Thánh Vịnh 68 ca ngợi Thiên Chúa trên trời dưới danh hiệu là Cha của những kẻ cô thế cô thân.

“Còn những người công chính múa nhảy mừng vui trước mặt Chúa Trời, niềm hoan lạc trào dâng.

Hãy hát mừng Thiên Chúa, đàn ca kính danh Người, hãy dọn đường cho Đấng ngự giá đằng vân.

Danh Người là ĐỨC CHÚA; trước Thánh Nhan, hãy vui mừng hớn hở.

Cha nuôi dưỡng cô nhi, Đấng đỡ bênh quả phụ, chính là Thiên Chúa ngự trong thánh điện Người.

Kẻ cô thân, Thiên Chúa cho nhà cửa, hạng tù đày, Người trả lại tự do hạnh phúc, còn quân phản nghịch phải ở nơi khô cằn” (Tv 68,4-7).

Vị Thiên Chúa mà sức mạnh của Người được diễn tả qua hình ảnh nổi bật “người cưỡi trên các tầng mây.” Người dùng sức mạnh của mình để giúp đỡ người yếu đuối, người bị bỏ rơi, và người bị giam giữ. Thiên Chúa hoạt động như là Cha đối với tất cả những người này.

Trong một lời cầu nguyện trọng thể cho sự giải phóng, Thánh Vịnh 89 gọi Thiên Chúa như là Cha, dẫu rằng lời này được Thiên Chúa đặt trên môi miệng của vua. Thiên Chúa nói về vị vua trung tín của Người là Đavít:

“Thế lực Người, ta cho trải dài đến Đại Dương, chủ quyền Người, cho mở rộng đến miền Sông Cả.

Người sẽ thưa với Ta: ‘Ngài chính là Thân Phụ, là Thiên Chúa con thờ, là núi đá cho con được cứu độ!’

Phần Ta, Ta sẽ đặt Người làm trưởng tử, cao cả hơn vua chúa trần gian.

Ta sẽ yêu thương Người đến muôn thuở và thành tín giữ giao ước với Người” (Tv 89,26-29).

Vua Đavít sẽ gọi Thiên Chúa là Cha, vị Thiên Chúa luôn trung tín đối với tình yêu đã được ký kết. Sự trung tín sắt son này cho phép gọi Thiên Chúa là “núi đá của ơn cứu độ.” Với ngôn ngữ làm nhớ lại 2 Sm 7,14-15, Thánh Vịnh cũng cảnh báo rằng khi vi phạm luật Thiên Chúa sẽ mang án phạt và tình yêu bền vững của Thiên Chúa sẽ không bao giờ bị rút lại (Tv 89,30-33).

Trở lại với văn chương ngôn sứ, chúng ta có thể bắt đầu với Giêrêmia và các sấm ngôn từ hậu thế kỷ VII, khi Giuđa bị đe dọa bởi cả những thế lực bên ngoài lẫn sự bội tín bên trong. Trong đoạn đầu, YHWH được trình bày vừa là Cha và vừa như là Chàng Rể (hoặc là bạn). Đoạn thứ hai lại được trình bày Thiên Chúa như là Cha đối với con cái mình. Trong cả hai đoạn, con người được mạnh mẽ khích lệ gọi Thiên Chúa là Cha mình. Trong đoạn thứ nhất, YHWH kêu gọi con người hoán cải vì sự bội tín của họ: “Ta đã nói: Có cách nào để Ta đặt ngươi trong hàng con cái? Ta sẽ ban cho ngươi một miền đất hoan lạc làm phần gia nghiệp cao quý nhất giữa chư dân. Ta đã nói: ngươi sẽ gọi Ta: “Cha ơi!” Và ngươi sẽ không lìa xa Ta nữa” (Gr 3,19).

Một sự tương phản rất rõ nét đến từ hai đoạn này. Thiên Chúa theo con người bằng tình yêu và sự trung thành của người cha, nhưng họ đã sống bất trung và nuông chiều theo những thái độ thờ ngẫu tượng, đến nỗi họ nói với một khúc gỗ rằng: “Ngài là cha của con” (Gr 2,27).

Thiên Chúa không chấp nhận sự thù hận chống lại con người nhưng chờ đợi một tình yêu cao thượng để họ không chỉ biết gọi Người là Cha mình mà còn biết hành động một cách phù hợp với danh xưng đó. Đoạn thứ nhất xem ra hòa hợp hình ảnh cha và bạn với nhau bởi vì tình yêu phụ tử và mẫu tử diễn tả sự chung phần giao ước mà Thiên Chúa giữ đối với dân Người. Hình ảnh sau này, Thiên Chúa như là Hôn Phu đối với dân Chúa tái xuất hiện trong văn chương ngôn sứ (x. Is 54,4-8; Gr 2,2; Ed 16,1-63; Hs 2,7,19) và có lẽ nó đã giúp gìn giữ lời của YHWH như là Cha đối với một người bé mọn nhất. Cựu Ước đặc biệt áp dụng cho Thiên Chúa hình ảnh người Cha (và không bao giờ dùng hình ảnh người Mẹ). Bởi vì, việc sử dụng như thế này có thể gợi lên những hành động “tự nhiên” và sinh sản như được gán cho thần Baal, Asherah và những thần nam và thần nữ khác ở Cận Đông. Vượt lên trên dạng thức là cha mẹ về phương diện sinh học và thể lý, YHWH không có sự kết giao. Tính phụ tử của Thiên Chúa (và tình trạng tương ứng của Ítraen như là con trai và con gái của Thiên Chúa) được hiểu, như chúng ta đã thấy, như là kết quả từ sự chọn lựa tự do và nhờ hoạt động của Thiên Chúa trong lịch sử cứu độ.

Bất chấp việc nghiêm cấm gọi Thiên Chúa là Cha, tên gọi này được lặp lại nhiều lần hơn trong Giêrêmia và những sách tiên tri. Sức mạnh phụ tử của Thiên Chúa sẽ mang những người lưu đày bị tản mác khắp nơi về nhà:

“Chúng trở về, nước mắt tuôn rơi, Ta sẽ an ủi và dẫn đưa chúng, dẫn đưa tới dòng nước, qua con đường thẳng băng, trên đó chúng không còn vấp ngã. Vì đối với Ítraen, Ta là một người Cha, còn đối với Ta, Épraim chính là con trưởng” (Gr 31,9).

Khi hành xử như một người cha yêu thương, YHWH sẽ tập hợp và hướng dẫn dân Chúa trên một cuộc xuất hành mới được miêu tả với hình ảnh “suối nước” và “một lối đi thẳng tắp,” được trình thuật trong trích đoạn nổi tiếng của Isaia (x. Is 40,3-4; 42,16; 43,19-20).

Chương cuối cùng của Isaia mang lại hai dẫn chứng rõ ràng hơn cho đề tài của chúng ta. Ít ra một số những người lưu đầy trở về từ Babylon về Giêrusalem, khi tiên tri trình bày những lời than vản của cộng đoàn trong một trích đoạn rất hiếm hoi. Trong đó, Thiên Chúa được gọi như là Cha và quả thật, Người được gọi là Cha chúng tôi:

“Quả chính Ngài là Cha chúng con! Chúng con không được ông Ápraham biết đến, không được ông Ítraen nhìn nhận, còn Ngài, lạy ĐỨC CHÚA, Ngài mới là Cha, là Đấng cứu chuộc chúng con: đó là danh Ngài từ muôn thuở” (Is 63,16).

Các tổ phụ, Ápraham và Ítraen (Giacóp) đã chết và không được sống lại. Thiên Chúa, Đấng cứu độ dân khỏi sự tàn lụi, là Đấng bất tử và như “Cha chúng con” làm sống lại niềm hy vọng về ơn cứu độ. Trong một lời nguyện xin Thiên Chúa mạc khải mình và hành động trở lại với sức mạnh, tiên tri tuyên cáo không chỉ những tội lỗi và sự cô thế cô thân của dân mà còn cả niềm tin của họ vào Cha, Đấng tác thành nên họ:

“Không có ai cầu khẩn danh Chúa, cũng chẳng ai tỉnh dậy mà níu lấy Ngài, vì Ngài đã ngoảnh mặt không nhìn đến, và để cho tội ác chúng con phạm mặc sức hành hạ chúng con. Thế nhưng, lạy Đức Chúa, Ngài là Cha chúng con; chúng con là đất sét, còn thợ gốm là Ngài, chính tay Ngài đã làm ra tất cả chúng con” (Is 64,6-7).

Sách tiên tri Isaia bắt đầu bằng việc gọi Thiên Chúa là “Chúa chúng con” (Is 1,10); và kết thúc bằng việc thưa với YHWH như là “Cha chúng con,” Thiên Chúa của dân Người sẽ chăm sóc họ trong lúc họ buồn phiền và kiên nhẫn nhào nặn họ như một người thợ gốm nhào nặn đất sét.

Một sấm ngôn Thiên Chúa từ Malakhi sử dụng hình ảnh người cha để minh chứng sự bất trung của dân Người:

“Con phải kính trọng cha; tôi tớ kính trọng chủ. Vậy nếu Ta là cha, thì đâu là lòng kính trọng Ta? Và nếu Ta là chủ, thì đâu là niềm kính sợ Ta? ĐỨC CHÚA các đạo binh phán với các ngươi là những tư tế khinh thường danh Ta. Nhưng các ngươi nói: Chúng con khinh thường danh Ngài ở chỗ nào?” (Mk 1,6).

Cha được đồng hóa với chủ để gợi lên quyền của vị Chủ Thần Linh mà Ítraen phải phục vụ Người. Nhưng trong bối cảnh này, bản văn muốn nhấn mạnh về Thiên Chúa như là người Cha yêu thương, đã đón nhận dân vào trong tương quan giao ước mà họ đã phản bội với giao ước: “Ta đã yêu thương các người, Đức Chúa phán” (Mk 1,2). Hình ảnh của Malakhi gợi lại điều mà một Thánh Vịnh nói về sự tùng phục khiêm nhường của dân như là những tôi tớ nam nữ của Thiên Chúa, với hình ảnh Thiên Chúa như là ông chủ và bà chủ:

“Quả thực như mắt của gia nhân hướng nhìn tay ông chủ, như mắt của nữ tỳ hướng nhìn tay bà chủ, mắt chúng ta cũng hướng nhìn lên CHÚA là Thiên Chúa chúng ta, tới khi Người xót thương chút phận” (Tv 123,2).

Một trích đoạn khác trong Malakhi trực tiếp chống lại hôn nhân với người ngoại bang, một việc thực hành đã gây tổn thương cho sự hiệp nhất tôn giáo của dân:

“Tất cả chúng ta chẳng có cùng một cha sao? Chẳng phải cùng một Thiên Chúa đã dựng nên chúng ta sao? Thế mà sao chúng ta lại phản bội nhau mà vi phạm giao ước của cha ông chúng ta?” (Mk 2,10).

Lề luật ngăn cấm hôn nhân dị chủng với những người ngoại bang (Đnl 7,1-4); x. Xh 34,10-17). Những sự vi phạm giao ước cũ như thế giống như là sự ly dị với những người vợ Do Thái trung thành và chống lại những cuộc hôn nhân mới với những người phụ nữ ngoại bang thì không thể so sánh với lòng trung thành hướng tới một gia đình rộng lớn của đức tin; tất cả những người Ítraen là con cái của một Cha là Thiên Chúa, như Malakhi 1,6 đã nói (x. Ga 8,41-42). Hôn nhân dị chủng không chỉ có nghĩa là bất trung mà còn có nguy cơ đe dọa sự hiệp nhất của dân tộc. Tuy nhiên, ở đây nó phải được lưu ý rằng “một Cha” có thể quy chiếu về Ápraham, trên phạm vị nhân loại, người đã mang lại cho dân tộc sự hiệp nhất (x. Mt 3,9; Lc 3,8; Ga 8,33.37.39). Có thể “giao ước của các tổ phụ” gợi lại giao ước được ký kết với Ápraham, hoặc nó có thể cho thấy trong một cách tổng quát một luật buộc được kế thừa từ quá khứ mà không có ý ám chỉ đến bất kỳ giao ước nào cụ thể cả (x. Am 1,9).

2. Cha trong các sách Đệ Nhị Quy Điển[5]

Quay sang với những sách Đệ Nhị Quy Điển, chúng ta bắt đầu với thánh thi ngợi ca đến từ phần cuối của sách Tôbia:

“Tại đó, Người đã cho anh em thấy: Người là Đấng cao cả muôn trùng. Trước toàn thể sinh linh, nào hãy suy tôn Chúa! Bởi Người là Chúa Tể, là Thiên Chúa ta thờ, là Thân Phụ của ta, là Thiên Chúa đến muôn thuở muôn đời” (Tb 13,4).

Cũng như những trích đoạn khác chúng ta sẽ nghiên cứu, lời cầu nguyện ngợi ca làm sáng tỏ thái độ cá vị đối với Thiên Chúa, nó làm nhớ lại trích đoạn Isaia 64,8 và báo trước tương quan của Tân Ước khi Chúa Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện với Thiên Chúa như là “Cha chúng con.” Sách Tôbia là một phần của sự hư cấu để khuyến thiện và thu hút người khác nhờ những nhân vật chính của cuốn sách (Tôbít, con trai Tôbia và Sara, con dâu sắp cưới) là những mẫu gương sống động về đức tin trung kiên khi bị thử thách bởi những thách đố của đức tin và cả những thử thách đau khổ. Thánh thi ca ngợi Thiên Chúa như là Cha chúng ta và như là Chúa chúng ta đến muôn đời có thể được thêm vào sau này. Ở trong tất cả các sự kiện, cuốn sách và thánh thi kết thúc bằng việc trình bày Thiên Chúa là Đấng tự do, công bình và trung thành trong đời sống của các nhân vật chính này. Thiên Chúa cho thấy sự quan tâm yêu thương và đầy tình cha đối với Tôbít, gia đình ông, và tất cả những ai chịu đau khổ trong thời lưu đày (Tb 13,3-5).

Sách Huấn Ca cẩn thận ngỏ với Thiên Chúa như là “Chúa, Cha, và Người Cai Trị cuộc đời con” (Hc 23,1) và sự thay đổi tinh tế là “Chúa, Cha, và Chúa của đời con” (Hc 23,4). Những lời này xuất hiện trong một lời cầu nguyện xin ơn khôn ngoan và ơn làm chủ đời mình. Ơn khôn ngoan đích thực có thể được sống bởi những ai kiên trì cầu xin Thiên Chúa ban sự trợ giúp khi Người cứu những người sa ngã trong tội lỗi. Trong cuốn sách này, lời cầu nguyện nơi một Thánh Thi tạ ơn gợi lại lời cầu xin với “Thân Phụ” của Thánh Vịnh 89,27. Lời cầu này diễn tả Thiên Chúa như người cha luôn trợ giúp người con gặp cảnh khốn cùng: “Tôi kêu cầu Đức Chúa là Cha của Chúa tôi: Xin đừng bỏ rơi con trong những ngày khốn quẫn, khi bè lũ kiêu căng hoành hành mà chẳng có người nào trợ giúp” (Hc 51,10). Quyền năng của Thiên Chúa bảo đảm ơn cứu độ cho những ai trong cảnh đau buồn biết cầu khẩn lên Người.

Khi tố giác những ai tin tưởng các thần để đưa họ và những đàn cừu vượt qua biển an toàn, sách Khôn Ngoan hướng lên Thiên Chúa và tuyên xưng: “Thế nhưng lạy Cha, chính Cha mới quan phòng hướng dẫn vì Cha đã vạch đường giữa biển, rẽ lối an toàn trên sóng nước” (Kn 14,3). Sự quan phòng của Thiên Chúa như người Cha điều khiển cách mạnh mẽ các đàn cừu, biển cả và mọi thụ tạo. Trước đó, trình thuật của sách Khôn Ngoan nói về con đường sai trái mà những người vô đạo thích thú và đi theo, bao gồm cả những dự định của họ làm đau khổ và giết chết những người công chính, người bị họ coi là “hênh hoang vì có Thiên Chúa là cha” (Kn 2,16).

3. Những lối so sánh và những hệ luận

Để hoàn tất việc khảo cứu về danh xưng Cha dành cho Thiên Chúa trong Cựu Ước, chúng ta cần nhớ lại lối sử dụng so sánh, một số hệ luận và một số dữ kiện từ văn chương Liên Giao ước (Intertestamental Literature).[6] Trước hết, một số những trích đoạn so sánh hoạt động của Thiên Chúa đối với dân Người với hoạt động của một người cha lý tưởng. Trong cảnh điêu tàn, Thiên Chúa đã tài tình “dẫn đưa” dân đến nơi của họ “như một người cha dẫn đưa con mình” (x. Đnl 1,31); trong sa mạc, Người cũng “giáo dục” họ như “một người cha giáo dục con mình” (Đnl 8,5; x. Kn 11,9-10). Hình ảnh về sự giáo dục không phải được hiểu Thiên Chúa như một người cha lạnh lùng, độc tài, lại càng không phải là một người cha tàn bạo và thích luận phạt. Nó được giải thích bởi tình yêu mà từ đó thúc đẩy Thiên Chúa quan tâm đến việc huấn luyện người con yêu dấu của mình. Để khích lệ một sự tin tưởng khôn ngoan và thành tâm vào Thiên Chúa, Đấng giáo dục con cái Người, sách Châm Ngôn cho rằng: “Vì ĐỨC CHÚA khiển trách kẻ Người thương, như người cha xử với con yêu quý” (Cn 3,12).

Những ai kính sợ và phục vụ Thiên Chúa có thể gặp cảnh rủi ro, nhưng sách Châm Ngôn khích lệ họ hãy nhìn những gian truân như thế trong tương quan thân mật gần gũi với Thiên Chúa và như là những thử thách của ân huệ Thiên Chúa. Một trong các Thánh Vịnh dẫn nhập điều căn bản là chính sự so sánh để ca ngợi sự giúp đỡ đầy yêu thương của Thiên Chúa đối với từng người và với dân được tuyển chọn cũng như toàn thể mọi người: “Như người cha chạnh lòng thương con cái, CHÚA cũng chạnh lòng thương kẻ kính tôn” (Tv 103,13).

Cuối cùng, khi nói về những người thờ phượng đích thực là những ai sẽ được dành riêng trong ngày chung thẩm, Thiên Chúa được so sánh như một người cha:

“Vào ngày Ta hành động, chúng sẽ thuộc về Ta như sở hữu riêng, - ĐỨC CHÚA các đạo binh phán, Ta sẽ xót thương chúng như người cha xót thương đứa con phụng dưỡng mình” (Ml 3,17).

Như chúng ta đã lưu ý ở trên về sự kiện là Cựu Ước hiếm khi áp dụng cho Thiên Chúa sự so sánh của người Cha; đoạn cuối cho thấy rằng những lối so sánh như người cha dành cho Thiên Chúa cũng khá hiếm. Trong một cách thế nào đó không tương xứng, Cựu Ước đã sử dụng cách quảng đại hơn hệ luận của tình cha khi nói về những người con của Thiên Chúa (x. Đnl 14,1) hoặc con cái (x. Is 45,11). Ítraen đã trở thành “con đầu lòng” của Thiên Chúa (x. Xh 4,22), “con cái” hoặc “con” (x. Hs 11,1; Kn 18,13). Mặc đầu ý nghĩa về phận làm con tập thể đã chiếm ưu thế trong Do Thái Giáo tiền Kitô Giáo, những con người trung thành và công chính thì cũng thỉnh thoảng được tách ra. Vua, người đứng giữa Thiên Chúa và dân, sẽ được tôn làm vua như là công cụ của ý muốn Vua thần linh, và sẽ được gọi là “con” Thiên Chúa (x. Tv 2,7). Trong truyền thống khôn ngoan, một người công chính có thể được gọi là “con cái” Thiên Chúa hoặc “con” Thiên Chúa (Kn 2,13,18; 5,5). Người đàn ông chăm sóc những người góa bụa và những trẻ mồ côi “sẽ nên như một người con của Đấng Tối Cao” (Hc 4,10), nhưng trước tiên nó được hiểu cho dân như một tập thể, nhờ sự tuyển chọn và hành động giải phóng của Thiên Chúa, họ được gia nhập vào tình trạng làm con cái Thiên Chúa (x. Gr 3,22), “những người con trai và con gái” (x. Đnl 32,19; Is 30,1), hoặc “con cái” (Is 1,2, x. Gr 31,20). Ngôn ngữ này diễn tả sự gần gũi thân mật về tương quan của Ítraen với Thiên Chúa, và không có nơi nào rõ hơn trong Hôsê 11,1-4.

Trong khi ở nơi khác tiên tri sử dụng lối so sánh Thiên Chúa như Hiền Thê đối với dân, ở đây ông trình bày lối so sánh dịu dàng và gây xúc động về cha mẹ yêu thương cưu mang con cái của họ. Thiên Chúa đã không ngừng kêu gọi dân riêng từ bỏ việc tôn thờ ngẫu tượng vì nó làm cho họ trở thành những người con hỗn xược và vô ơn, nhưng Thiên Chúa càng kêu gọi, họ càng bỏ đi (Hs 11,1-2). Sấm ngôn của Thiên Chúa mô tả những hoạt động của Thiên Chúa rất từ tâm và nhân hậu như sau:

“Ta đã tập đi cho Épraim, đã đỡ cánh tay nó, nhưng chúng không hiểu là Ta chữa lành chúng. Ta lấy dây nhân nghĩa, lấy mối ân tình mà lôi kéo chúng. Ta xử với chúng như người nựng trẻ thơ, nâng lên áp vào má; Ta cúi xuống gần nó mà đút cho nó ăn” (Hs 11,3-4).

Không có đoạn nào trong Cựu Ước ngoài đoạn này để diễn tả sự chăm sóc đầy dịu hiền và yêu thương của Thiên Chúa đối với những đứa con bất trị của Người. Trong đó, lề luật cho phép cha mẹ bán một người con bất trị cho những bậc kỳ lão và sau đó ném đá cho đến chết (Đnl 21,18-21), tình yêu như người cha của Thiên Chúa sẽ không giao nộp dân cho những chọn lựa tội lỗi của họ. Thiên Chúa là người yêu thương nhất hơn cả cha mẹ, cả khi đối diện với những người con luôn bất hiếu và vô trách nhiệm.

Văn chương Liên Giao Ước (Intertestamental Literature) chứa đựng một số kiểu nói như người cha và người mẹ dành cho Thiên Chúa. Không gì trổi vượt hơn sự dịu dàng của một trích đoạn từ thánh thi Tạ Ơn của Qumran, nó áp dụng cho Thiên Chúa một so sánh (“Ngài là một người cha”) và hai so sánh (“như người phụ nữ” và như người “cha nuôi”):

“Vì Ngài là một người cha cho tất cả (con cái) của sự thật Ngài, và như một người phụ nữ yêu thương cách dịu dàng con thơ mình, như thế Ngài vui trong họ; và như một người cha nuôi cưu mang đứa con trên cánh tay mình, Ngài chăm sóc mọi thụ tạo của Ngài.”[7]

Tuy nhiên, một trích đoạn cho biết rằng trong một ít nơi mà những cuộn da Biển Chết giới thiệu chủ đề về tình cha của Thiên Chúa và tình trạng làm con của con người (4Q373.1.16), tương quan vẫn còn chưa được nối kết với ‘Thần Khí của Thiên Chúa.” Như chúng ta sẽ thấy sau này, Chúa Giêsu và Thánh Thần của Người sẽ đi vào bức tranh khi Phaolô quy chiếu về việc chúng ta được nhận làm nghĩa tử Thiên Chúa (x. Rm 8,14-17; Gl 4,4-6).

Để kết thúc, việc gọi Thiên Chúa là Cha diễn tả sự can dự sâu xa của Người vào trong lịch sử của Ítraen, những người lãnh đạo, vua chúa, và những người công chính của họ. Tên gọi này không muốn nói đến việc Thiên Chúa sinh họ về mặt thể lý; vua Ítraen không hiểu là được thần hóa, cũng như theo nghĩa được sinh ra từ thần linh. Việc sử dụng lối ẩn dụ Cha muốn nhấn mạnh việc Thiên Chúa chọn lựa dân riêng cách tự do và đầy tính sáng tạo. Danh xưng này chứa đựng sự cam kết yêu thương và tình yêu say mê của Thiên Chúa trong việc bảo vệ, yêu thương và nuôi nấng một dân, nhưng họ bất trung nên Thiên Chúa cần giáo dục họ. Nhưng ngoài những sai lầm tội lỗi, bất trung với giao ước với Thiên Chúa, họ vẫn luôn có thể gọi Thiên Chúa là Cha của mình. Khi tìm thấy sự đa dạng của những bản văn lịch sử, ngôn sứ và khôn ngoan, tên gọi thần linh này không thể được gọi thường xuyên trong Cựu Ước, nhưng nó sẽ trở thành tên gọi rất được ưu thích trong Tân Ước, như chúng ta sẽ thấy sau này.

 


[1] Augustinô, Sermones, 117.

[2] Cf. A. Schenker, “Le monothéisme Israélite: un dieu qui transcende le monde e les dieux,” in Biblica 78 (1997), 436-348.

[3] Cf. Marc Zvi Brettler, God is King: Understanding and Israelite Metaphor, JSOT Press, Sheffield 1989.

[4] Bao gồm các sách mà Kitô giáo gọi là Cựu Ước, phần được viết bằng tiếng Hípri và Aram, tức là 39 cuốn thuộc Quy Điển Palestina của Do Thái Giáo, cụ thể là các sách: Sáng Thế, Xuất Hành, Lêvi, Dân Số, Đệ Nhị Luật; Giôsuê, Thủ Lãnh, Rút, 2 sách Samuen, 2 sách Các Vua, 2 sách Sử Biên Niên, Étra, Nơkhêmia, Étte, Gióp, Thánh Vịnh, Châm Ngôn; Giảng Viên; Diễm Ca; Isaia, Giêrêmia, Aica, Êdêkien, Đanien, Hôsê, Giôen, Amốt, Ôvađia, Giôna, Mikha, Nakhum, Khabacúc, Xôphônia, Khácgai, Dacaria, Malakhi.

[5] Đây là cách gọi của Quy Điển Công Giáo, còn Quy Điển Tin Lành gọi 7 quyển ấy là “Ngụy thư” (Apocrypha). Nhóm này bao gồm 7 quyển được viết bằng tiếng Hy Lạp: Tôbia, Giuđitha, 1 và 2 Macabê, Khôn Ngoan, Huấn Ca, Barúc, và các phụ lục của sách Étte và Đanien.

[6] Đây là các tác phẩm văn chương Do Thái nằm vào giai đoạn chuyển tiếp từ Cựu Ước sang Tân Ước, kể từ thời điểm biên soạn cuốn sách cuối cùng của Cựu Ước đến cuốn đầu tiên của Tân Ước (tức từ khi sau biên soạn sách Khôn Ngoan vào khoảng 130 TCN đến khi thư 1 Thêxalônica vào năm 51 CN). Tuy nhiên, trên thực tế, giai đoạn này kéo dài song song đến hết thời kỳ biên soạn các sách Tân Ước. Các sách này cũng hàm chứa những nội dung thần học và giáo lý của Do Thái giáo và của Kitô giáo, nhưng có một số điểm không phù hợp với các tiêu chuẩn của một cuốn sách của sách được linh hứng. Công Giáo gọi các sách này là “Ngụy thư.” Phần lớn các sách vào thời kỳ đầu của nhóm này thường thuộc thể loại văn chương khải huyền. Có thể nêu lên một số cuốn như: Khải huyền của Ábraham; Khải huyền của Ađam; Khải huyền của Barúc; Khải huyền của Đanien; Khải huyền của Êlia; Khải huyền của Étra; Mạc khải của Gabrien; Khải huyền của Laméc; Khải huyền của Metatron; Khải huyền của Môsê; Khải huyền của Sedrach; Khải huyền của Dêphania; Khải huyền của Dêrúbbaben… Tuy nhiên, có một số cuốn sách thuộc văn chương Do Thái nổi tiếng cùng thời, nhưng không được kể vào trong nhóm này. Chẳng hạn như: Tài liệu Qumran, các sách của sử gia Philone, hoặc của sử gia Josephus Flavius.

[7] M. Rose, “Names of God in the OT,” ABC, vol. 4,1001-11.

 Còn tiếp...

Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương

Nguồn tin: