Đề tài hôn phối là một đề tài được Kinh Thánh nói nhiều. Phép lạ Cana xảy ra trong một tiệc cưới. Trong Cựu Ước, các ngôn sứ đã nhiều lần dùng hình ảnh hôn lễ hay giao ước hôn phối để diễn tả tình yêu giữa Thiên Chúa và dân Người.
Trích đoạn trong bài đọc I, theo sách ngôn sứ Isaia, là một minh họa lý thú về mối tình này:
“Vì ngươi sẽ được Chúa đem lòng sủng ái, và Chúa thiết lập hôn ước cùng xứ sở ngươi. Như trai tài sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui cho chú rể, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ” (Is 62,4b-5).
Thiên Chúa đã ký kết một giao ước với dân Người như một người nam kết hôn với một người nữ. Thiên Chúa chính là chú rể. Đoạn văn của bài đọc I (Is 62,1-5) là một minh họa rất lý thú, phối hợp đề tài xuất hành với một đề tài trong sách Hôsê, đó là Giuđa được coi như người bạn trăm năm của Thiên Chúa. Với từ hôn ước này, Thiên Chúa sắp hoàn lại tước vị “hôn thê” cho dân Người:
“Như cô dâu là niềm vui cho chú rể, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ” (Is 62,5).
Niềm vui của Giáo Ước giữa Thiên Chúa và dân Người tiên báo niềm vui thời Mêsia, niềm vui dạt dào như rượu mới trong tiệc cưới Cana.
Sự hiện diện của Chúa Giêsu ở tiệc cưới Cana, mở màn cho hôn nhân Kitô giáo trong một kỷ nguyên mới. Đây là lễ hôn phối đầu tiên trong đạo mới. Thánh Gioan giới thiệu với chúng ta ở trong trình thuật này: Chính Chúa Giêsu là Chú Rể của tiệc cưới giao ước mới giữa Thiên Chúa và loài người, mà đại diện đó là Mẹ Maria và các Tông Đồ.
Phép lạ Cana diễn ra trong một bữa tiệc. Bữa tiệc là hình ảnh được dùng để diễn tả niềm vui vào ngày Đấng Mêsia đến. Bữa tiệc này dồi dào rượu ngon. Điều được loan báo trong lời sấm đã được thực hiện:
“Ngày ấy trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ thiết đãi muôn dân một bữa tiệc, thịt thì béo, rượu thì ngon” (Is 25,6).
Chúa Giêsu nhiều lần dùng hình ảnh bữa tiệc để nói về Nước Trời. Người ví mình là chú rể, là tân lang. Chúa Giêsu ví giáo huấn của Người là rượu mới không thể chứa trong bầu da cũ.
Chúa Giêsu xuất hiện như Chú Rể đích thực của nhân loại. Người biến nước thành rượu, biến nước Cựu Ước thành rượu Tân Ước. Rượu của Người vừa ngon vừa nhiều, có cả phẩm lẫn lượng. Hình ảnh này cho thấy ơn cứu độ do Chúa Giêsu mang đến thật là nguồn ơn quý giá và dư đầy.
Tiệc cưới Cana là biểu tượng Tiệc Cưới Con Thiên Chúa với loài người. Tin Mừng Gioan không nói đến cô dâu và chú rể mà tập trung vào hai nhân vật chính là Đức Giêsu và Mẹ Maria. Theo các nhà chú giải: Đức Giêsu là Chú Rể mới và Đức Maria là hình ảnh của Cô Dâu Mới, tức là Giáo Hội, Hiền Thê của Đức Kitô. Đức Maria chỉ nói hai câu ngắn gọn, một câu với Chúa Giêsu:
“Con ơi, họ hết rượu rồi” (Ga 2,3)
và một câu khác với gia nhân:
“Người bảo gì, các anh cứ làm theo” (Ga 2,5).
Dù Mẹ nói rất ít lời, nhưng lời chuyển cầu của Mẹ rất có thần thế trước mặt Chúa.
Như thế, phép lạ nước hoá thành rượu đem lại niềm vui cho người dự tiệc loan báo về mầu nhiệm Thánh Thể: bánh và rượu trở nên Mình và Máu Chúa Kitô đem lại nguồn vui ơn cứu độ cho con người. Mỗi lần dự lễ là một lần dự tiệc thánh, dự tiệc cưới: Tiệc Lời Chúa và Tiệc Thánh Thể. Bí tích Thánh Thể là một phép lạ xảy ra hàng ngày trên bàn thờ, bánh và rượu trở nên Mình và Máu Thánh Chúa.
Chúng ta tin vào mầu nhiệm Thánh Thể, vì biết rằng Chúa yêu chúng ta, Người trở nên Bánh Hằng Sống nuôi chúng ta. Cả hai bàn tiệc lương thực thần thiêng nuôi dưỡng chúng ta trong hành trình tiến về nhà Cha dự tiệc cưới Thiên Đàng. Amen!
Tin Mừng hôm nay trình thuật lại sự kiện Chúa Giêsu đến dự lễ cưới của một người thân ở Cana và phép lạ Chúa hóa nước thành rượu. Đây là dấu lạ đầu tiên trong bảy dấu lạ mà Chúa Giêsu thực hiện để bày tỏ vinh quang của Người cho các Tông Đồ. Theo Gioan, các dấu lạ này là những dụ ngôn bằng hành động giúp khám phá ý nghĩa về mầu nhiệm Con Thiên Chúa. Có hai hình ảnh lôi kéo sự chú ý của chúng ta: đó là tiệc cưới và nước lã hóa thành rượu. Chúng ta tìm hiểu ý nghĩa của chúng.
Đối với Chúa Giêsu, hôn phối giữa người nam và người nữ là điều rất tốt đẹp, cao trọng, được Thiên Chúa mong muốn và chúc phúc. Người tỏ ra rất trân trọng cuộc tình tự nhiên này, nên đã đến để tham dự tiệc cưới và chia sẻ niềm vui với họ trong ngày cưới. Hơn nữa, Người còn can thiệp khi họ hết rượu bằng cách làm phép lạ hóa nước lã thành rượu ngon để niềm vui tiệc cưới được nên trọn vẹn. Từ nguyên thủy, Thiên Chúa đã dựng nên con người có nam có nữ, để họ kết hợp nên vợ chồng, yêu thương nhau và để nối dõi tông đường. Chúa Giêsu thiết lập hôn phối tự nhiên này thành một bí tích trong bảy bí tích.
Tuy nhiên, từ sự hiện diện của Chúa Giêsu trong cuộc hôn phối này, thánh Gioan muốn ám chỉ đến một cuộc hôn phối thiêng liêng khác giữa Thiên Chúa và loài người, được các ngôn sứ loan báo từ xưa, nay đã được thực hiện và thành toàn nhờ Chúa Giêsu Kitô.
Quả thế, Cựu Ước đã diễn tả giao ước hôn phối giữa Thiên Chúa và loài người bằng nhiều cách thế khác nhau. Trích đoạn trong bài đọc I, theo sách ngôn sứ Isaia, là một minh họa lý thú về mối tình này:
“Vì ngươi sẽ được Chúa đem lòng sủng ái, và Chúa thiết lập hôn ước cùng xứ sở ngươi. Như trai tài sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui cho chú rể, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ” (Is 62,4b-5).
Trong sách Hôsê, chúng ta tìm thấy một minh họa khác về chủ đề này:
“Ta sẽ thiết lập hôn ước với ngươi vĩnh cửu, Ta sẽ lập hôn ước với ngươi trong công minh và chính trực, trong ân tình và xót thương; Ta sẽ lập hôn ước với ngươi trong tín thành, và ngươi sẽ được biết Đức Chúa” (Hs 2,21-22).
Nhưng phải đợi đến sự xuất hiện của Con Thiên Chúa, lời hứa về “giao ước mới và vĩnh cửu” được thực hiện. Tại Cana, biểu tượng và thực tại gặp gỡ nhau: hôn phối nhân loại của hai người trẻ là cơ hội để biểu thị hôn phối giữa Chúa Kitô và Hội Thánh, mà nó sẽ được thành toàn trong “giờ của Người” ở trên thập giá. Đức Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa, được sai đến trong thế gian để ký kết giao ước hôn phối với loài người qua mầu nhiệm nhập thể, tử nạn và phục sinh.
Trong ý nghĩa này, thánh Phaolô có những lời rất ý nghĩa:
“Người đàn ông sẽ lìa bỏ cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội Thánh” (Ep 5,31-32).
Chính Đức Kitô đã yêu thương Hội Thánh và đã hiến mình cho Hội Thánh. Người đã thánh hóa và thanh tẩy Hội Thánh bằng nước và lời hằng sống, để có một Hội Thánh xinh đẹp và lộng lẫy, không tỳ ố (x. Ep 5,26-27).
Bởi thế, Công Đồng Vaticanô II trong Hiến Chế Lumen Gentium, số 6, trình bày Hội Thánh như là Hiền Thê của Đức Kitô và là Nhiệm Thể của Người:
“Hội Thánh được mô tả như Hiền Thê tinh tuyền của Con Thiên Chúa… Sau khi thanh tẩy Hiền Thê, Chúa Kitô muốn Hiền Thê ấy kết hợp và vâng phục mình trong tình yêu và trung tín.”
Như thế, từ hôn phối tự nhiên này, thánh Gioan muốn đưa chúng ta tới giao ước hôn phối giữa Thiên Chúa và loài người qua đại diện “hai họ” là Chúa Giêsu như là tân lang và Giáo Hội như tân nương của giao ước mới.
Chúng ta trở lại với hình ảnh nổi bật thứ hai đó là rượu cưới. Một sự cố không may xảy ra cho hôn lễ là hết rượu khi tiệc cưới chưa kết thúc. Đức Maria đã nhạy bén phát hiện ra điều đó và thưa với Chúa: “Họ hết rượu rồi.” Từ sự kiện không ai muốn, Chúa đưa tới sự lành. Chúa truyền người ta đổ nước vào sáu chum. Rồi người làm phép lạ hóa nước thành rượu ngon. Người quản tiệc bất ngờ và thắc mắc:
“Ai cũng thết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến giờ này” (Ga 2,10).
Nước hóa thành rượu ngon làm vui lòng khách mời. Vậy, hình ảnh rượu được dùng ở đây để ám chỉ điều gì?
Theo truyền thống Kinh Thánh, rượu, thịt và sữa được dùng trong bữa tiệc do Thiên Chúa thiết đãi dân Người. “Thịt thì béo, rượu thì ngon” (Is 25,6). Rượu mang lại niềm vui cho những tâm hồn, vì rượu làm hoan hỷ lòng người (x. Is 55). Rượu cũng là biểu tượng của Luật Chúa (Torah). Ai đào sâu và suy gẫm Luật Chúa thì được ví như người “giặt áo mình trong rượu” (St 49,11). Tin Mừng nhất lãm ví giáo huấn của Đấng Mêsia với rượu mới, tượng trưng cho Tin Mừng của Người. Rượu này nguyên chất, hảo hạng, ngon hơn so với “rượu cũ” của Do Thái giáo (x. Mt 9,14-17; Mc 2,18-22; Lc 5,33-39). Tại Cana, rượu cũ không còn nữa, người ta cần một thứ rượu mới. Đức Kitô cung cấp thứ rượu mới này được lấy từ “nước” của Do Thái giáo và thay thế cho thứ rượu bị thiếu. Như thế, Lời Đức Kitô vượt quá Luật Môsê cả chất lượng lẫn số lượng.
Nhưng, rượu mới này còn là hình ảnh ám chỉ về Chúa Thánh Thần mà Đấng Phục Sinh sẽ ban cho Giáo Hội trong ngày Lễ Hiện Xuống. Nếu rượu mang lại niềm vui và sự hoan hỷ cho khách dự tiệc, thì Chúa Thánh Thần chính là niềm vui, niềm hoan lạc và tình yêu của Thiên Chúa được đổ vào lòng chúng ta như thánh Phaolô nói:
“Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần và Người ban cho chúng ta” (Rm 5,5).
“Thần Khí làm cho cho anh em nên nghĩa tử, nhờ đó chúng ta kêu lên: Abba! Cha ơi!” (Rm 8,15).
Thánh Thần được ban trong giao ước mới một cách dồi dào và phong phú. Nếu đời sống Giáo Hội không có Chúa Thánh Thần thì chẳng khác gì tiệc cưới không có rượu. Không có Chúa Thánh Thần có nghĩa là hết tình yêu, hết niềm vui, hết sự nhiệt thành. Nhờ Thánh Thần, các Tông Đồ đã hăng hái rao giảng Tin Mừng, nói được tiếng lạ, chữa lành bệnh tật (x. Cv 2,1-11).
Khi được rửa tội, chúng ta ký kết giao ước với Thiên Chúa, được tháp nhập vào Hội Thánh, Thân Thể và Hiền Thê của Chúa Kitô. Nhờ đó, chúng ta được nên một với Thiên Chúa. Trở thành Kitô hữu không phải là một chọn lựa luân lý, nhưng là một cuộc gặp gỡ và gắn bó đích thực với một con Người, chính là Đức Giêsu Kitô, Đấng ban cho cuộc sống một chân trời mới để bước đi.
Trong truyền thống tu đức, các Giáo Phụ và các bậc thầy tu đức gọi đời sống kết hợp với Thiên Chúa chính là “cuộc hôn phối thiêng liêng” giữa Thiên Chúa và chúng ta (x. Gioan Thánh Giá, Linh Ca). Trở thành Kitô hữu chính là thuộc về Thiên Chúa, sống yêu mến và kết hợp nên một với Người như là đối tượng lớn nhất của đời mình. Không có gì trong đời ta mà không thuộc về Chúa Kitô. Như thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã yêu mến Chúa với tình yêu nồng nàn như một cặp tình nhân yêu nhau. Ngài yêu Chúa với tất cả tâm hồn mình, đến nỗi bất luận ở đâu cũng được, miễn là ở đó mình được yêu Chúa. Chân Phước Êlisabét Chúa Ba Ngôi diễn tả hôn ước này trong một lá thư gửi cho mẹ ngài: “Tân nương thuộc về tân lang; tân lang của con đã cưới con; Ngài muốn con thêm cho Ngài một nhân tính.”
Chúng ta chỉ có thể yêu mến Thiên Chúa khi chúng ta biết đón nhận thứ rượu mới là Lời Chúa bằng việc suy gẫm và thực hành Lời đó mỗi ngày. Chúng ta chỉ có thể yêu mến Thiên Chúa khi chúng ta có Chúa Thánh Thần. Vì chỉ có Người mới liên kết chúng ta nên một với Thiên Chúa trong Đức Kitô. Chính Chúa Thánh Thần sẽ dẫn chúng ta tới dự tiệc cưới Con Chiên trong ngày cánh chung. Amen!
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương
Đức tin đem lại sự sung mãn
Đức Giêsu, Đức Maria và các môn đệ cùng có mặt trong một đám cưới ở làng quê Cana. Tại đây, Đức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên trong Tin mừng Gioan, biến nước thành rượu, bảo đảm sự hoan vui của hoan tiệc.
Tin mừng Gioan hay kể lại 7 dấu lạ có ý nghĩa, những dấu lạ vén mở con người và sứ vụ của Đức Giêsu: Người hóa bánh hóa nhiều cho thấy Người là Bánh thật; mở mặt cho người mù bẩm sinh cho thấy Người là Ánh Sáng; hoàn sinh Lazaro cho thấy Đức Giêsu là sự Sống lại… Dấu lạ ở tiệc cưới Cana, dấu lạ đầu tiên, củng cố đức tin, khai mở sứ vụ công khai của Đức Giêsu. Dấu lạ này cho thấy đức tin mang lại niềm vui sung mãn.
1. Thách đố tiềm tàng trong niềm vui thế sự
Cuộc sống quanh chúng ta vẫn không ngừng chảy với những nhịp phách của niềm vui, niềm vui chính đáng của của cuộc nhân sinh và cũng ẩn chứa những niềm vui tạm bợ của thế sự. Tuy nhiên trong niềm vui của cuộc nhân sinh ấy đang hàm chứa những nguy cơ của việc tàn canh khi cuộc vui còn dang dở. Tiệc cưới Cana cũng ở trong cảnh huống ấy: “Tiệc nửa chừng thì sắp hết rượu”.
Vấn đề đặt ra là làm sao nhận ra tình trạng nguy hiểm tiềm tàng trong cuộc vui? Trong đám thực khách không ai hay biết tình trạng này ngoại trừ Hiền mẫu Chúa Giêsu. Mẹ thấy rõ sự lúng túng lo âu của chàng rể và Mẹ định nghĩa thực trạng: “Họ hết rượu rồi”.
Khi nhìn vào thực trạng thế giới hôm nay, Mẹ Giáo hội cũng đang cảm nhận “họ hết rượu rồi”: thế giới đang cạn dần rượu tình thương, rượu bác ái, rượu của tình mến đối với Thiên Chúa với thực tại Nước Trời; thế giới hết rượu nồng cảm thông liên đới, và thay vào đó là thứ rượu nhạt nhẽo vô cảm, dửng dưng với tha nhân và với vũ trụ. Người ta thưởng ngoãn với niềm vui vị kỉ mà quên mất nỗi đau đang rình rập người nghèo, người yếu thế và cho cả chính mình.
Quả thực, chúng ta đang đứng trước nguy cơ “hết rượu”, như Đức Maria xưa trong tiệc cưới Cana, Mẹ Giáo Hội đang nhận ra tình trạng của con người trong thế giới hôm nay, và đang thưa với Thiên Chúa của mình sự khốn cùng của con cái mình.
2. Đức tin đem lại niềm vui sung mãn
Thách đố ẩn tàng trong hoan tiệc đã được Đức Kitô hóa giải, và niềm vui luôn trào tràn nhờ niềm tin của Đấng được xưng là diễm phúc vì đã tin vào Lời Chúa, Đức Maria.
Trong tiệc cưới Cana, Đức Giêsu đã biến thứ nước dùng cho nghi thức tẩy uế của Do thái giáo, thành rượu ngon, làm thỏa lòng thực khách hoan tiệc. Người biến nước của Cựu ước thành rượu của Tân ước. Như thế Người đã khai mở một thời đại mới, thời đại thiên sai, thời chan chứa niềm vui cứu độ.
Với dấu lạ này, Đức Giêsu cho thấy mình chính là Đấng Mêsia. Người đến để thiết lập một trật tự mới dồi dào và phong phú, như rượu vừa nhiều vừa ngon. Bài đọc Kinh sách Thứ Bảy sau Lễ Hiển Linh đã diễn tả:
Tại Galile, nhờ Đức Kitô ra tay mà có rượu, nghĩa là lề luật rút lui, ân sủng thay thế, hình bóng bị đẩy xa, chân lý thành hiện thực, thực tại phàm trần được thay thế bằng thực tại linh thiêng. Cựu ước nhường chỗ cho Tân ước… Như nước trong chum không mất đi, nhưng đổi thành chất khác, cũng vậy, Lề luật không mất đi, nhờ được kiện toàn, nhờ có Đức Kitô đến. Rượu vừa hết thì có rượu khác, rượu Cựu ước tốt, những rượu Tân ước tốt hơn.
“Ngày thứ ba, có tiệc cưới”, đó là ngày cầu chúc và niềm vui cho nhân loại được cứu độ vào ngày thứ ba, ngày Phục sinh, niềm vui mà Isaia diễn tả trong bài đọc thứ nhất, niềm vui sung mãn của hoan tiệc giữa Đức Chúa và dân Người: niềm vui của “duyên thắm chỉ hồng”; “trai tài sánh duyên thục nữ”, “Đấng tác tạo” sánh duyên với “con dân”, niềm vui giữa Thiên Chúa và dân Người: “Vì lòng mến Sion, tôi sẽ không nín lặng, vì lòng mến Giêrusalem, tôi ngủ yên sao đành”
Để có được niềm vui sung mãn này, cần có đức tin. Chính đức tin dẫn chúng ta tới gặp Đấng là khởi đầu và cùng đích của niềm vui. Tông huấn Niềm vui Tin mừng viết:
Niềm vui Tin Mừng đổ đầy trái tim và cuộc sống của tất cả những ai gặp Chúa Giêsu. Những ai chấp nhận đề nghị cứu độ của Người thì được giải thoát khỏi tội lỗi buồn phiền, trống rỗng nội tâm và cô đơn. Với Đức Kitô, niềm vui luôn được tại sinh” (n. 1).
Trong tiệc cưới Cana, Đức Kitô đã làm cho niềm vui được sung mãn, nhưng phải nói tới vai trò trung gian của Mẹ Người. Mẹ không chỉ thấy thực trạng thiếu thốn, cạn khô của rượu tình Chúa, tình người trong các gia đình, trong các mối tương quan, Mẹ nài xin Chúa thi ân, và mời gọi chúng ta: “Người bảo gì, các anh hãy làm”.
3. “Người bảo gì, các anh hãy làm theo”
Để nhận ra những cảnh huống bất trắc tiềm ẩn trong cuộc sống, để thoát khỏi những hiểm nguy ẩn tàng, cần đức tin vào quyền năng Thiên Chúa và thực thi ý muốn của Người. Tin tưởng vào quyền năng, tình yêu của Thiên Chúa, Đức Maria đã nhắn gửi các môn đệ hãy làm theo những gì Đức Giêsu bảo. Tuy nhiên, chính Mẹ là mẫu gương, Mẹ đã sống kinh nghiệm làm theo ý Chúa: “xin hãy làm cho tôi như lời thiên thần truyền” (Lc 1,38).
Tiến bước trong thế giới, với tư cách là những kitô hữu, cách riêng, những môn đệ Chúa Kitô, chúng ta được mời gọi trở nên những người cầm canh, những ngôn sứ có khả năng soi mói bối cảnh thế giới và nhân tâm con người để thông tri cho người khác những cảnh huống vui mừng và hy vọng, âu sầu và lo lắng của con người và thời đại, đồng thời là những con người có khả năng chỉ cho người khác cách thức vượt qua những cảnh huống. Đức tin vào quyền năng của Thiên Chúa, Đấng làm được mọi sự, biến điều “bất khả” thành “khả thể”, mà chúng ta tiến bước trong niềm hy vọng vào an bình giữa những biến cảnh của cuộc sống. Đức Phanxicô mời gọi những môn đệ Chúa Kitô sống phẩm tính ngôn sứ của mình:
“Các Con hãy đánh thức thế giới”, bởi vì điểm làm nên đặc tính Đời sống Thánh hiến là ngôn sứ. […]. Ưu tiên mà bây giờ được đòi hỏi là: “trở nên ngôn sứ làm chứng như Chúa Giêsu đã sống trên trái đất này... Nhưng các tu sĩ phải để cho mình lo việc làm ngôn sứ”. Một ngôn sứ nhận được từ Thiên Chúa khả năng soi bói lịch sử trong đó họ sống và giải thích các biến cố: như là các người tuần canh coi chừng trong đêm tối và biết khi nào hừng đông xuất hiện (x. Is 21, 11-12). Biết Thiên Chúa và biết con người. Họ có khả năng phân định và cũng có khả năng tố cáo sự dữ của tội và các bất công, bởi vì sống tự do, họ không phải trả lời cho các người chủ nhân khác ngoài Thiên Chúa, họ không có tư lợi nào ngoài điều thuộc về Thiên Chúa (n. 2).
Thánh Phaolô mời gọi chúng ta thực thi ý Chúa để trở nên những người có được trực giác thiêng liêng bằng cách sống đặc sủng của mình, trở nên tặng phẩm cho người khác: “Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí […]. Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chúng” (1Cr 12,4-11).
Lm. Hoa Thập Tự