Hướng Dẫn Mục Vụ Cho Những Người Đã Ly Thân Hay Ly Dị Và Sống Chung Bất Hợp Luật

Thu,25/02/2021
Lượt xem: 1366

MỤC LỤC

I. Ý ĐỊNH CỦA THIÊN CHÚA VỀ HÔN NHÂN: MỘT NAM MỘT NỮ VÀ MÃI MÃI.

1. Mục đích của hôn nhân:

2. Đặc tính của hôn nhân: đơn nhất và trung thành mãi mãi

a. Nền tảng thần học:

b. Hệ luận

II. TỘI LỖI ĐE DỌA ĐÁNH MẤT SỰ HIỆP THÔNG

III. THÂN XÁC CON NGƯỜI VÀ HÔN NHÂN ĐƯỢC CỨU CHUỘC: THẦN HỌC VỀ THÂN XÁC

1. Ý nghĩa của thân xác và tính dục con người

a. Thân xác có tính biểu tượng

b. Thân xác có tính hôn phối

c. Thân xác con người tự do nhưng trong tình trạng sa ngã

d. Thân xác con người được cứu chuộc

2. Hệ lụy

a. Li dị cố phá vỡ một Giao ước vĩnh cửu

b. Gian dâm và sống chung: không tình yêu hoặc tình yêu không thành toàn

c. Nỗi thống khổ trong “Hôn nhân” với người đồng tính

 

I. Ý ĐỊNH CỦA THIÊN CHÚA VỀ HÔN NHÂN: MỘT NAM MỘT NỮ VÀ MÃI MÃI.

Kinh nghiệm cũng như mạc khải Thánh kinh cho ta biết ý định của Thiên Chúa, ngay từ thuở ban đầu, kể từ khi xuất hiện trong lịch sử, khi thành nhân con người sống có đôi, một nam một nữ trong một mối quan hệ gọi là hôn phối: lìa bỏ cha mẹ họ trở thành “một xương một thịt” của nhau. Nhờ thân xác khác biệt của hai phái tính có thể bổ túc cho nhau và nhờ ái lực tình yêu giữa hai nhân vị được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa, người nam và người nữ kết hôn với nhau, thiết lập một đời sống chung thân mật trong tình yêu thương và sinh con đẻ cái.[1]

1. Mục đích của hôn nhân:

Ý định của Thiên Chúa là để con người tham gia vào công trình sáng tạo tuyệt vời của Ngài qua hôn nhân. Thiên Chúa muốn xây dựng mối hiệp thông yêu thương cụ thể trong trần gian nơi các gia đình để hôn nhân – gia đình trở thành “bí tích” của sự Hiệp Thông Thiên Chúa vô hình. Hiệp Thông là tên gọi khác của Tình Yêu bản thể Thiên Chúa[2].

Hiệp thông tại cội nguồn thần linh Thiên Chúa Ba Ngôi luôn là một hiệp thông phong nhiêu. Thiên Chúa hằng sống là Thiên Chúa của kẻ sống. Yêu thương, nâng đỡ và bổ túc cho nhau trong một đời sống chung thân mật duy nhất (unitive), và sinh sản cùng nuôi dạy con cái (procreative) là những mục đích gắn kết không thể tách rời của hôn nhân.

2. Đặc tính của hôn nhân: đơn nhất và trung thành mãi mãi

Thánh Kinh nói “con người ở một mình không tốt”, điều đó có nghĩa là con người được tạo dựng không để sống cá biệt đơn độc nhưng sống tương quan. Quan hệ với muôn loài trong thiên nhiên, dẫu như là kẻ được trao quyền làm chủ (“đặt tên”) trên chúng, con người vẫn cảm thấy không đủ, nó chỉ hết đơn độc khi tương quan với một con người khác bình đẳng về phẩm giá cho dù khác biệt. Việc tạo dựng người phụ nữ từ xác thân người đàn ông, như Thánh kinh nói, chắc hẳn muốn dạy ta: sự hoàn toàn bình đẳng giữa hai phái nam nữ (từ chiếc xương sườn người đàn ông), tính dục và sự khác biệt tính dục là một mầu nhiệm (tạo dựng Evà từ một giấc ngủ sâu), tình cảm yêu thương nối kết họ nên một, khuynh hướng tái hợp như trở lại tình trạng nguyên thủy, và phẩm giá nhân vị của mỗi con người.[3]

«Bởi thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ, mà kết hợp với vợ mình, và cả hai nên một xương một thịt» (St 2,24).

Tách rời khỏi cha mẹ là một sự rứt bỏ đau đớn, nhưng cần phải như thế để có thể hoàn toàn tập trung tạo lập một thực thể mới, là đôi bạn đời, nền tảng của một gia đình mới. Một khi lìa bỏ cha mẹ, người ta có thể bắt đầu một hành trình cuộc sống chung mới mẻ với người bạn đời, không chỉ để yêu thương nhưng còn để lo lắng chăm sóc cho nhau qua những năm tháng dài lâu của cuộc đời, khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi mạnh khỏe cũng như lúc ốm đau. Người nam và người nữ nên một xương một thịt, không những trên bình diện của sự thân mật tâm sinh lý mà nhất là liên hệ tới toàn thể con người. Tạo thành một đôi vợ chồng có nghĩa là sinh hạ một mối hiệp thông của tình yêu lớn lao hơn cả mọi thứ có thể có trên thế gian này, là sinh thành một mối quan hệ liên vị thâm sâu và bền vững hơn những gì người ta có thể hình dung. Hôn nhân là một quan hệ kết ước dấn thân trọn vẹn nhân vị và mãi mãi chỉ giữa hai người, một nam một nữ, một quan hệ mà bất cứ ai sống yêu thương thật sự đều khát mong.

Đó là điều người ta vẫn xác quyết về quan hệ hôn nhân: đơn hôn và vĩnh hôn.

a. Nền tảng thần học:

Lí do thần học của mối quan hệ đơn nhất và mãi mãi này là : hôn nhân được xem như là dấu chỉ biểu tượng, mạc khải của một giao ước bất khả phân li, bởi đó Thiên Chúa kết hợp mãi mãi với dân Ngài. Hôn nhân một vợ một chồng và suốt đời giữa người nam và người nữ rất ý nghĩa và là một giá trị rất lớn lao đến nỗi được xem như một biểu tượng của tình yêu Thiên Chúa đối với dân Ngài và tình yêu mà dân phải đáp lại tình yêu ấy của Chúa.

Đó là một sự kết hợp dẫu cho bao nhiêu bất trung của con người cũng không thể hủy diệt, vì Thiên Chúa là một Thiên Chúa trung thành, là Lòng Thương Xót (hesed), và Ngài vẫn yêu thương và phủ bọc dân Ngài bằng sự thương xót và tha thứ. Câu chuyện hôn nhân của tiên tri Hôsê thế kỉ thứ tám TCN, theo lời Chúa, ông đi cưới một cô gái điếm làm vợ và rồi lại chịu nàng phản bội và được kêu gọi hãy tha thứ cho người vợ thất tín đó, tiếp tục đón nhận và sửa trị nàng[4], được Thánh Kinh giới thiệu như là biểu trưng cho Tình yêu trung thành và Lòng Thương Xót của Chúa đối với dân giao ước thường hay bất trung. Nghĩ về chính kinh nghiệm của mình, vị tiên tri đã hiểu thế nào là Tình yêu chân thành của Thiên Chúa, một tình yêu kêu mời dân mình hãy trung thành và cảm thấy bị bội phản khi dân chạy theo các thần lạ. Dù con người thế nào Thiên Chúa vẫn yêu thương và muốn tha thứ một khi họ ăn năn sám hối trở về với Ngài. Dù con người xử rất tệ với Chúa, nhưng Chúa không xử tệ với con người. Chúa không hành động theo sự nóng giận. Chúa không nổi cơn thịnh nộ. Chúa không trừng phạt con người. Thiên Chúa vẫn kiên nhẫn chờ đợi con người trở về[5], quay về với tình yêu thuở ban đầu[6].

Tính biểu trưng đó của tình yêu hôn nhân giúp ta hiểu Tình yêu Thiên Chúa dành cho dân Ngài sâu thẳm dường nào và Ngài cũng khát mong tình yêu của dân đáp lại tương xứng, và hơn nữa nó còn chiếu một ánh sáng mới lên vẻ đẹp và sự phong phú của tình yêu nhân loại, được trình bày như một tình yêu đơn nhất và trung thành với nhau mãi mãi. Người chồng được mời gọi bắt chước tình yêu Thiên Chúa, sống quảng đại, nhân từ và thương cảm đối với người vợ lầm lỗi, kính trọng phẩm giá ngôi vị đầy đủ của nàng. Ngược lại, người vợ được mời gọi ăn ở tới mức lí tưởng của một phụ nữ đối với chồng mình. Cũng như Thiên Chúa yêu cầu Ngài phải được yêu mến với hết linh hồn, hết con người[7], cũng thế người vợ được kêu mời yêu thương chồng bằng hết cả con người xác-hồn của mình. Không được vi phạm lời đoan thề vốn là cơ sở của Giao ước[8], người phụ nữ cưới thuở thanh xuân cũng không thể bị ruồng rẫy[9]. Hôn ước mang lại hoa quả là bình an[10].

Hôn nhân nhất phu nhất phụ và bất khả phân li được Đức Giêsu xác nhận, Người nhắc đến ý định “thuở ban đầu” của Thiên Chúa về hôn nhân trong một cuộc đối chất với những người Pharisêu[11]. Người trích dẫn bản văn sách Sáng thế nói về việc tạo dựng người nam và người nữ[12]: các người không đọc thấy, Đấng Tạo Hóa thuở ban đầu đã tạo dựng một người nam cho chỉ một người nữ sao? Vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Chính Thiên Chúa can dự vào sự kết hợp này, bằng cách đóng ấn và thánh hiến hôn phối này một cách siêu việt vượt trên cách thức phàm nhân: «Điều gì Thiên Chúa đã kết hợp loài người không được phân li»[13].

Rẫy vợ rẫy chồng hay li dị không nằm trong ý định ban đầu của Chúa, nhưng đã có lúc được nhân nhượng vì “lòng dạ chai đá” của con người.[14] Với những người Pharisêu nói rằng Môsê đã ‘truyền dạy’ cấp giấy li dị vì đã hiểu không đúng ý định của tác giả thánh, Đức Giêsu trả lời rằng đó chỉ là ‘phép tắc’ ngoại lệ so với luật hôn nhân một vợ một chồng và bất khả phân li đã được thiết lập ngay từ thuở ban đầu lúc tạo dựng. Những người nào không giữ được đòi hỏi này mà đi li dị và kết hôn lần nữa thì được cho là ngoại tình, theo cả hai nghĩa: phá vỡ khế ước hôn nhân với người bạn đời mình và cũng là bất trung với Giao ước với Thiên Chúa. Li dị là một tội nghiêm trọng, thế nhưng chắc hẳn là Đức Giêsu chưa bao giờ coi đó là tội không thể tha thứ được.

Đức Giêsu đã đến thiết lập lại hoàn toàn mối hiệp thông với Thiên Chúa Cha trong mầu nhiệm Vượt Qua, ân sủng có thể giúp các tín hữu thuộc Giao ước mới vượt qua được tình trạng “lòng dạ chai đá” theo luật Giao ước cũ[15]. Người nam và người nữ “trong Đức Kitô” đã vượt qua được tình trạng nổi loạn với Đức Chúa không còn trở nên hai kẻ “xa lạ” với nhau.[16]

b. Hệ luận

Việc từ chối hôn phối thứ hai theo luật của Giao ước mới, quả thật, không chỉ nên hiểu đó như là một lề luật, cho bằng là để tiến tới sự viên mãn, kiện toàn trong viễn ảnh Nước Chúa trị đến. Đức Giêsu yêu cầu những ai muốn tham dự vào Nước ấy mà gặp phải hôn nhân thất bại thì hãy “ở vậy”, nghĩa là từ khước một cuộc hôn nhân mới[17].Ở độc thân vì Nước Trời tỏ lộ cho người ta thấy đối với Đức Giêsu hôn nhân bất khả phân li không chỉ là một lề luật, nhưng như là một viễn ảnh cận cánh chung. Trong diễn từ trên Núi, việc Đức Giêsu lên án việc rẫy vợ rẫy chồng và tái hôn, song song với việc Người khuyên dạy chớ thề thốt, trả thù, và hãy yêu kẻ thù, được cộng đoàn Kitô hữu sơ khai hiểu như định hướng cho những ai trong cuộc sống muốn nên hoàn hảo như Cha trên trời[18]. Thực tại tối hậu, tức là Nước Thiên Chúa, khởi đi từ bây giờ, trong thời gian. Thánh Phaolô nhắc đến lệnh truyền của Chúa Giêsu: «với những người đã kết hôn, tôi ra lệnh này, không phải tôi, mà là Chúa : vợ không được bỏ chồng, mà nếu đã bỏ chồng, thì phải ở độc thân hoặc phải làm hòa với chồng; và chồng cũng không được rẫy vợ»[19].

Theo đúng giáo huấn của Chúa Giêsu và các tông đồ, người nam và người nữ chỉ có thể kết hôn hợp pháp lần nữa khi người bạn đời của mình qua đời[20]. Còn trường hợp tách li hai người trong cuộc “hôn nhân” bất hợp pháp mà Mt 5,32 và 19,9 nói tới, đối với cộng đoàn hội thánh công giáo, thì đó không phải là cho li dị nhưng là công bố một kết hợp không thành sự, tức “tiêu hôn”.

Thế kỉ thứ tư, thánh Ambrôsiô (c.340-397 A.D.) nói những người li dị vợ hay chồng mình và sau đó kết hôn với một người khác, dù được xã hội và luật dân sự Roma khi ấy nhìn nhận như là một cuộc hôn nhân, thật ra là một sự ngoại tình dưới con mắt của Chúa[21]. Qua các thế kỉ, dần dà xuất hiện ý tưởng về một dây liên kết hữu thể không thể tháo cởi được tạo nên trong hôn nhân. Bước chuyển này gắn liền với sự phát triển Giáo luật trong thời kì Trung Cổ, được soạn thảo khởi đi từ luật pháp Roma nhưng với những thay đổi sâu xa do ảnh hưởng của luật pháp Germanico, và đồng thời được dần dần xác định đúng theo bản tính bí tích của hôn phối. Luật Roma với tuyên ngôn quan trọng nền tảng «Nuptias non concubitus, sed consensus facit» giúp khẳng định không phải việc chung sống cũng không phải sự sống chung thân mật (ăn ở) như vợ chồng tạo nên và duy trì hôn nhân, nhưng phải có sự ưng thuận (consensus) của đôi hôn phối tuyên bố muốn nên vợ nên chồng với nhau. Trao đổi sự ưng thuận đó một khi đã hoàn tất với xác nhận của hành động consummatum thì tạo nên hôn nhân, tuyệt đối bất khả phân li. Cộng đoàn Kitô hữu trong thời kì này trong khi rao giảng về hôn nhân đơn nhất và bất khả phân li yêu cầu các tín hữu của mình phải làm sao không chỉ tuyên bố sự ưng thuận ấy trong ngày kết hôn nhưng còn phải sống nó mọi ngày suốt đời.[22]

II. TỘI LỖI ĐE DỌA ĐÁNH MẤT SỰ HIỆP THÔNG

«Bấy giờ, con người và vợ mình, cả hai đều trần truồng mà không xấu hổ trước mặt nhau» (St 2,25).

Theo ý định của Thiên Chúa được mạc khải trong Thánh kinh, hai người bạn đời, nam và nữ, tạo lập một cuộc sống chung hòa hợp và hiệp thông thân mật chỉ giữa hai người không có kẻ thứ ba trong mối quan hệ “một xương một thịt” này. Họ tin tưởng lẫn nhau và đón nhận nhau, cả trong hoàn cảnh nghèo nàn hay bấp bênh biểu trưng bởi sự trần truồng. “Trần truồng mà không xấu hổ” trước mặt người khác, con người trong tình trạng vô tội (công chính) nguyên thủy chưa có cái phản vệ vì ánh nhìn dục vọng hắc ám của người khác khiến phẩm giá nhân vị mình bị xúc phạm: họ «nhìn nhau và thấu hiểu nhau … với ánh mắt tâm hồn tràn đầy bình an»[23]. Họ yêu thương bằng tình yêu Thiên Chúa trong thân xác và qua thân xác, của người nam và người nữ, một tình yêu đích thực hoàn hảo không biết sợ hãi[24], không biết xấu hổ. Ánh mắt của tình yêu đích thật mang lại sự an toàn, an bình, hạnh phúc, cho dẫu mình trần truồng, nghèo nàn. Con người nguyên thủy “hoàn toàn được phủ đầy” bởi Tình yêu Thiên Chúa, hoàn toàn tự do (không nô lệ bởi những xung năng dục vọng) trở thành tặng phẩm ngôi vị trao hiến cho nhau.

Thế nhưng, một khi đã bắt đầu phạm tội, cùng với sự chết, hậu quả của tội lỗi là sự hài hòa lí tưởng trọn hảo này bị phá hủy. Con người bị mất cái nhìn tuyệt vời này khi tội lỗi xuất hiện. Con người đầu tiên đã phạm tội, bất tuân lệnh Chúa (biểu trưng bởi hành động “ăn trái cấm”),và bởi thế đánh mất sự hiệp thông với Thiên Chúa, và do đó mối hiệp thông vốn có giữa người nam và người nữ cũng rơi vào khủng hoảng, họ trở nên xa lạ với nhau, nhận ra mình trần truồng và xấu hổ, và tìm cách che thân[25].Từ đó, con người trần truồng “xấu hổ” vì phải tự bảo vệ để mình không bị biến thành một thứ “đồ vật” hòng chỉ để thỏa khoái cảm dục tính cho người khác.  Hậu quả của tội lỗi còn là: họ bắt đầu kết án lẫn nhau[26]. Quan hệ thân mật vợ chồng, theo ý định của Thiên Chúa, vốn quân bình yên ổn, sau khi phạm tội lại bị xáo trộn và phá vỡ bởi một niềm đam mê và nô lệ bất chính cho nỗi thèm khát vô độ và thống trị nhau[27]. Khát khao tính dục nơi con người, thay vì là sức mạnh để yêu thương trao hiến trong tự do, chân thành, toàn vẹn, lại trở thành một xung năng thỏa mãn ích kỉ.

Nhưng «Đức Giêsu đã đến trả lại cho thụ tạo tình trạng tinh tuyền nguyên thủy của chúng»[28]. Điều này sẽ chưa nên trọn cho tới khi Nước Trời đến, tuy nhiên qua ơn cứu chuộc, chúng ta có thể bắt đầu phục hồi điều đã mất ngay từ đời này.

III. THÂN XÁC CON NGƯỜI VÀ HÔN NHÂN ĐƯỢC CỨU CHUỘC: THẦN HỌC VỀ THÂN XÁC

Đức Kitô, đã chết và phục sinh, khôi phục lại cho chúng ta ý nghĩa của cuộc sống hôn nhân và thân xác con người. Thật ra, sau cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô, cuộc sống của người tín hữu trở nên còn tốt hơn cả tình trạng nguyên thủy lúc nguyên tổ chưa phạm tội. Từ nay, Thiên Chúa đã bước vào lịch sử. Chúa Cha đã sai Con mình đến trần gian. Thiên Chúa siêu việt và vô hình đã trở nên hữu hình. Hơn nữa, vì Thiên Chúa đã hóa thành nhục thể, giờ đây ta có thể sờ chạm, nếm hưởng, cảm nghe được tiếng Ngài. Tội lỗi của chúng ta  được tẩy sạch, cuộc sống của chúng ta được khôi phục lại và chúng ta được nâng lên sống một đời sống mới trong Đức Kitô và với Đức Kitô.

Suy tư thần học về thân xác của thánh Gioan Phaolô II sẽ giúp chúng ta có cái nhìn toàn diện và đầy đủ về thân xác trong đó có tính dục con người, và ý nghĩa của hôn nhân, kể cả cho mọi hôn nhân tự nhiên.

1. Ý nghĩa của thân xác và tính dục con người

Khởi đi từ các kinh nghiệm nguyên thủy và kinh nghiệm tội nguyên tổ, chúng ta có thể hiểu được rằng thân xác con người vốn có tính biểu tượng và hôn phối, thân xác ấy vốn tự do nhưng là một thân xác đã ở trong tình trạng sa ngã nhưng đã được Đức Kitô cứu chuộc.

a. Thân xác có tính biểu tượng

Thân xác làm cho toàn thể con người ta được hiện diện trong thế giới này. Thân xác con người, khác với thân xác của loài vật, có khả năng kết hợp cái hữu hình (vật lí) với cái vô hình (siêu hình) làm một. Con người không chỉ là “xác đất vật hèn”, nhưng còn là gì hơn nữa. Là tinh thần (hồn) nhập thể (xác). Con người có khả năng tư duy, có thể hướng về Đấng Vô biên (capax Dei), và thông giao với Ngài và với đồng loại, còn các loài vật thì không thể. Con người có thể nhận biết, yêu thương, đi vào quan hệ thân tình với Thiên Chúa. Hơn nữa, con người có thể thiết lập quan hệ thân mật với nhau. Hai mặt này, hữu hình và vô hình, không tách biệt nhau nơi con người. Có thể nói, chúng được “ráp lại với nhau” nơi chúng ta. Đó là ý nghĩa của chữ «biểu tượng» (symbol) trong nguyên gốc tiếng Hi lạp. Hai chiều kích thấy được và không thấy được này tồn tại và tạo nên một nhân vị. Thân xác con người là vật mang vác cái vô hình, làm cho cái vô hình hiện diện. Thực tại hữu hình này hướng ngay ý thức của ta tới thực tại vô hình. Chính qua thân xác với các giác quan (xúc giác, thính giác, thị giác, vị giác, khứu giác, giác quan vận động, …) mà một người mẹ bày tỏ tình yêu con qua âu yếm, ôm ấp, ru hời, bú mớm, và con cảm nếm tình mẹ ấm nồng qua dòng sữa ấm nóng khi đói, yên lòng mẹ có đó trong lời ru thiết tha trìu mến. Những thanh âm tai nghe, nụ cười mắt thấy, vuốt ve da thịt, rất có ý nghĩa bởi lẽ “tôi” quan tâm điều gì thật tuyệt diệu “người kia” muốn nói. Một cái gì đó bên kia xác thể hữu hình xảy ra nhưng rất thực, đó là tình yêu. Tương giao vợ chồng, cũng thế, càng phải qua thân xác, của một nam và một nữ, vì họ là “một xương một thịt”, họ là “mình” của nhau. Tính biểu tượng của cõi nhân gian lộ rõ hơn nữa bởi mặt kia của sự cô đơn nguyên thủy. Ađam không thấy có ai trong vô số loài trong tạo thành của Chúa mà thân xác giống như của mình. Ông không thể tạo lập được giao tiếp xã hội với chúng, mà chỉ có Evà. Cái khác biệt này là một cách khác nữa cho Ađam kinh nghiệm bản tính biểu tượng của xác thân con người. Xác thể các loài vật cũng là thân xác, nhưng chúng không thể là biểu tượng như thân xác của con người vốn làm hiện diện toàn thể ngã vị, cả phần hữu hình lẫn vô hình.

b. Thân xác có tính hôn phối

Một hệ luận của bản tính biểu tượng của thân xác con người là thân xác được tạo dựng dành cho hôn phối, tức cho tình yêu, cho tương giao. Khi vợ chồng kết hợp trên thân xác, họ âu yếm nhau trên da thịt, trao đổi lời yêu thương, qua đó diễn tả và thông truyền tình yêu cho nhau. Họ làm thế trong tư cách của thụ tạo mang tính biểu tượng. Người đàn ông và người đàn bà khi diễn tả tình yêu của họ trong quan hệ tình dục là họ thông giao (communication) tức là trao đổi giữa hai nhân vị. Thân xác con người có một ngôn ngữ, đó là ngôn ngữ của tính dục mà các loài khác không có. Ý nghĩa hôn phối đó của thân xác, được thánh Gioan Phaolô II xác nhận, chính là «khả năng diễn tả tình yêu: là chính tình yêu mà trong đó ngã vị trở thành một tặng phẩm và – nhờ tặng phẩm ấy – con người thực hiện trọn vẹn chính ý nghĩa của hữu thể và hiện hữu của mình»[29]. Hiến dâng cho nhau qua thân xác, theo tiến trình bình thường tự nhiên, sẽ dẫn đến một “kẻ thứ ba”. “Biết” nhau dẫn đến hoa quả một sự sống mới xuất hiện.[30] Việc làm cha và làm mẹ là chóp đỉnh và đồng thời mạc khải trọn vẹn mầu nhiệm của tính dục. Chỉ thị đầu tiên của Thiên Chúa trong Sáng thế là «Hãy sinh sôi nảy nở».[31] Đó không chỉ là một mệnh lệnh truyền sinh, nhưng còn là tiếng gọi hãy yêu thương theo hình ảnh của Thiên Chúa và như thế “làm cho chính ý nghĩa của hữu thể và hiện hữu của chúng ta nên trọn vẹn”.

c. Thân xác con người tự do nhưng trong tình trạng sa ngã

Trước khi phạm tội, thân xác con người hay nhân vị vốn tự do, nghĩa là không bị nô lệ cho tội lỗi cùng những dục vọng của nó. Tự do ấy của thân xác là sự tự do của một tặng phẩm dành để trao hiến cho nhau và là nền tảng cần thiết để yêu thương như Thiên Chúa yêu thương. Không có tự do, người nam và người nữ không thể trao ban cũng không thể đón nhận tình yêu.

Thế nhưng, thân xác của con người đã bị tội lỗi làm thương tổn trầm trọng. Tội lỗi xuất phát từ sự lạm dụng tự do thuộc tinh thần, nên thân xác con người vốn làm một với tinh thần bị ảnh hưởng. Hậu quả đầu tiên của tội nguyên tổ là cái chết. Thiên Chúa không dựng nên chúng ta để chết. Sự chết là hoàn toàn vô nghĩa. Thiên Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống[32]. Ngài muốn chúng ta được sống, và sống viên mãn. Một hậu quả khác của tội nguyên tổ là dục tình dâm loạn. Một người đàn ông có thể đem lòng thèm muốn một người đàn bà. Người ấy có thể chỉ xem người đàn bà như một món đồ chơi để thỏa khoái lạc dục vọng trong chốc lát, rồi bỏ. Có thể người ấy nhìn một người phụ nữ chỉ ở vẻ đẹp thể chất với ánh mắt nhục cảm, mà không chạm tới ngã vị vốn vô hình của một chủ thể. Nói cách khác, tội lỗi ngăn trở chúng ta hiểu thân xác con người thuộc phạm trù biểu tượng.

d. Thân xác con người được cứu chuộc

Nhưng tất cả đã không bị đánh mất. Đức Kitô, nhờ cái chết và sự phục sinh của Người, khôi phục lại cho chúng ta ý nghĩa của cuộc sống và thân xác con người. Thân xác Người đã bị đóng đinh. Và từ đó ta biết, thân xác chúng ta và chính chúng ta được tạo dựng để yêu thương, chứ không để phục lụy dục vọng thấp hèn. Như thế, chúng ta khám phá ra ý nghĩa sâu thẳm rằng thân xác là để tương giao hơn là để cho khoái lạc tính dục. Tính dục chỉ quan trọng trong mức độ khi nó phục vụ cho sự tương giao. Vả lại, thân xác chúng ta tự do nhưng đã bị thương tổn. Cuối cùng, trong Đức Kitô và nhờ Đức Kitô mà chúng ta ý thức sâu sắc rằng thân xác chúng ta, con người chúng ta được cứu chuộc. Biết và yêu mến Đức Kitô, cụ thể, sẽ giúp ta bước vào các kinh nghiệm nguyên thủy, từ đó có thể biết bản thân mình sâu hơn và biết cuộc sống mình sẽ như thế nào.

Thân xác con người là để mạc khải và thông dự vào huyền nhiệm tình yêu thần linh. «Trong hôn nhân, ái ân trở thành dấu chỉ và bảo đảm của sự hiệp thông tinh thần»[33]. Loài vật không có khả năng «hiệp thông tinh thần» này vì chúng không phải loài thuộc linh (spiritual). Muôn loài còn đang “rên siết” mong ngóng tới ngày được dự phần vào vinh quang của hàng con cái Thiên Chúa. Lịch sử được cứu chuộc, muôn loài được cứu chuộc chính là nhờ sự kiện con người, kẻ được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa, được cứu chuộc. Nơi con người, kết hợp “nên một xương một thịt” không chỉ là sự giao cấu của hai thể xác (như các loài khác), nhưng là «một biểu lộ ‘bí tích’ của sự hiệp thông các ngôi vị (communio personarum)»[34]. Thân xác con người là bí tích. Thân xác con người khiến mầu nhiệm Thiên Chúa vô hình, Đấng là chính sự Hiệp Thông các Ngôi Vị (Cha, Con, và Thánh Thần) và bản thể Ngài là Tình Yêu, trở nên hữu hình. Thiên Chúa không thể ban cho ái tình một mục đích và một phẩm giá nào cao cả hơn thế. Hôn phối, một cách nào đó, nhằm trở thành biểu tượng, vừa diễn tả vừa thể hiện, mầu nhiệm đời sống nội tại Ba Ngôi Thiên Chúa, là Tình Yêu. Như thế, thân xác con người, nam cũng như nữ, được Thiên Chúa tạo dựng và mời gọi đi vào hiệp thông để nên như mạc khải đệ nhất cho mầu nhiệm của Người trong thế giới tạo thành này. Hôn phối là “bí tích đệ nhất” (Gioan Phaolô II) theo nghĩa đó. Mầu nhiệm hôn phối thật là cao cả, là vì thế. Toàn thể cuộc sống hôn nhân là bí tích, nhưng “mầu nhiệm cao cả” này không nơi nào thể hiện rõ ràng hơn khi hai người vợ và chồng nên một “xác thịt”.

2. Hệ lụy

a. Li dị cố phá vỡ một Giao ước vĩnh cửu

Giao ước là một hợp đồng hay một sự cùng cam kết trong tự do của hai bên. Toàn bộ Cựu ước xoay quanh trục Giao ước của Thiên Chúa với Dân của Ngài. Giao ước mới Thiên Chúa thiết lập với nhân loại cách vĩnh viễn nhờ sự chết của Chúa Kitô trên thập giá. Giao ước mới và vĩnh cửu này được kí kết không phải bằng mực mà bằng máu. Các bên trao đổi với nhau không bằng những hiện vật nhưng bằng những nhân vị. Thiên Chúa trao ban cho chúng ta chính sự sống của Ngài và đáp lại Ngài yêu cầu chúng ta trao hiến sự sống của chúng ta cho Ngài.

Giao ước mà Thiên Chúa kí kết với Dân Người gồm hai mặt chính yếu. Một mặt, dân tham dự vào giao ước. Trong Cựu ước, việc ấy làm bằng nhiều cách khác nhau, như: một hiến lễ dâng kính, một người đàn ông được cắt bì, một người nam và một người nữ kết ước hôn nhân,.... Trong Tân ước, Giao ước mới được thiết lập theo một thể thức dứt khoát. Đó là điều mà chúng ta gọi là Thánh Thể. Chúng ta hoàn toàn tham dự thực sự và tích cực vào Giao ước ấy. Đức Kitô ban cho chúng ta Mình và Máu Người dưới hình thức bánh và rượu, để chúng ta dự phần vào đó trong một hành động của đức tin. Mặt khác, Dân Chúa, bằng chính cách sống của mình, làm hiện diện hay hiện tại hóa Giao ước đó. Khi Môsê đón nhận từ Thiên Chúa Mười Điều Răn trên núi Sinai, ông công bố lời Chúa nói rằng, nếu dân trung thành giữ Luật Mười Điều Răn, họ sẽ trở thành dân tự do. Nói cách khác, họ sẽ giống như Thiên Chúa. Như thế, bởi tự do của mình dân Israel sẽ là một dấu chỉ sống động của chính Thiên Chúa cho các dân tộc khác. Họ sẽ là một chứng từ của sự hiện diện của Thiên Chúa trên trái đất nhờ cách sống của họ.

Cũng như thế, hôn nhân tham dự vào Giao ước mới do Đức Kitô thiết lập, và hiện tại hóa Giao ước mới này. Khi một người nam và một người nữ kết hôn với nhau, họ đón nhận các phúc lành bí tích của Giao ước mới. Thiên Chúa cho họ tham dự vào chính sự trung tín của Ngài. Họ vốn đã tham dự vào Giao ước mới khi chịu Bí tích Rửa tội xét như một cá nhân tham dự vào Thân Mình Đức Kitô, là Hội Thánh. Nay, họ tham dự vào Giao ước mới trong tư cách mới như một đôi vợ chồng, một cộng đoàn Hội thánh tại gia trong cộng đoàn Hội Thánh toàn thể.

Chúng ta nhớ lại rằng trong vườn Êđen, Ađam không tìm được cho mình một người “trợ tá tương xứng” nào, Thiên Chúa đã làm cho ông đi vào một “giấc ngủ mê” (x. St 2,21). “Giấc ngủ mê” trong tiếng Hípri có ý nói Thiên Chúa tiến hành một hành động rất nhiệm mầu và ý nghĩa. Khi Ađam thức dậy, ông thấy đã xảy ra một điều rất kì diệu. Thiên Chúa dẫn đến trước mặt ông người phụ nữ, “trợ tá tương xứng” của ông, đã được tạo dựng cách huyền nhiệm, và ông ngây ngất la lên: “Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi!” (x. St 2,23). Đây là sáng kiến của chính Thiên Chúa. Khi ấy, và chỉ khi ấy Ađam mới hành động. Đó là lúc Thiên Chúa sáng tạo nên hôn nhân, và thiết lập nó như một giao ước. Theo một nghĩa nào đó, hôn nhân giống như một đứa con mới sinh, được tạo dựng từ hư không và không bao giờ có thể bị tiêu diệt. Hôn nhân là một tạo thành của Thiên Chúa và là một tặng phẩm bởi Ngài.

Hơn nữa, tình yêu chung thủy của vợ chồng giống như một chiếc gương soi. Khi nhìn vào chiếc gương soi hôn phối này, nghĩa là chính khi ta sống hay nhìn vào cuộc sống hôn nhân thủy chung của các đôi vợ chồng quanh ta, ta nhận ra Tình yêu trung thành của Thiên Chúa. Hôn nhân làm hiện diện trong thế giới Tình yêu trung thành của Thiên Chúa, Giao ước của Thiên Chúa.

Mỗi nhân vị, dù nam hay nữ, đều được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa, giống như Thiên Chúa. Trong tư cách đó, người ấy có thể tham dự vào chính sự sống của Thiên Chúa và làm cho Thiên Chúa hiện diện giữa trần gian. Nhưng Thiên Chúa còn muốn hơn thế nữa. Ngài còn muốn người đàn ông và người đàn bà nên một trong hôn ước, để làm một hình ảnh phản chiếu Ngài còn rõ ràng và mãnh liệt hơn.

Chính Chúa nói con người ở một mình không tốt. Ngài muốn con người sống thành cộng đoàn hiệp nhất huynh đệ, chứ không như những cá nhân sống biệt lập, như những “ốc đảo” cô lập. Vì chính Thiên Chúa là mầu nhiệm Hiệp Thông của Ba Ngôi, Tình Yêu sâu thẳm giữa Cha, Con, và Thánh Thần. Chúng ta được tạo dựng theo hình ảnh của Ngài, được gọi sống như Ngài. Như thế, khi một người nam và một người nữ kết hợp với nhau trong hôn nhân, họ trở thành một hình ảnh của Thiên Chúa rõ rệt hơn, mạnh mẽ hơn. Khi ấy đôi bạn làm cho Thiên Chúa hiện diện theo một cách thức độc đáo, cách mà khi ở một mình họ không thể làm được. Như thánh Gioan-Phaolô II dạy rằng «con người trở nên hình ảnh của Thiên Chúa không chủ yếu tại yếu tố đơn độc cho bằng là ở tại sự hiệp thông»[35].

Như vậy, hôn nhân là một giao ước, vừa tham dự vào chính đời sống của Thiên Chúa vừa làm cho Chúa hiện diện trên trần gian. Một hôn nhân, cách chính xác, được tạo nên theo cách thức mô tả trong sách Sáng thế, cần đến hai hành động. Thứ nhất, hai người nam và nữ cam kết sống trung thành với nhau đến trọn đời, đến khi một trong hai người qua đời. Kế đến, qua quan hệ tính dục của vợ chồng hôn nhân ấy trở thành hoàn hợp (consummatum). Qua hai hành động khác biệt nhưng không tách biệt này sự kết hợp thành vợ chồng (“nên một xương một thịt”) bất khả phân li được hoàn tất. Giao ước hôn phối thành một thực tại.

Khi hai người nam và nữ li dị, họ đã tự ý hủy bỏ Giao ước kép đó: với Thiên Chúa trung thành giàu lòng thương xót, và với nhau.

b. Gian dâm và sống chung: không tình yêu hoặc tình yêu không thành toàn

Con người được tạo dựng cho tình yêu. Thân xác họ là dành cho «sự hợp hôn», và đó là lí do tại sao một người đàn ông và một người đàn bà có thể trở thành «một xương một thịt».

Tính dục nhân bản không chỉ thuộc thế giới vật lí hay sinh lí, nó còn hơn thế nữa thuộc về thế giới biểu tượng và thế giới của tình yêu. Tính dục không phải là một trò chơi giải trí. Người ta cũng không thể giản lược tính dục chỉ còn như là một hoạt động thử nghiệm. Người ta không thể «thử lửa» tình dục như thử nghiệm một chiếc xe hơi. Không thể lao mình vào thực nghiệm một mối quan hệ để xem thử nó «chạy» tốt hay không. Tính dục còn hơn thế nhiều. Nó «hoàn hợp» một mối quan hệ. Nó nâng cao một quan hệ giữa một người nam và một người nữ lên một cấp độ hoàn hảo hơn. Nó thiết lập tình yêu giữa người đàn ông và người phụ nữ trên mảnh đất thiêng thánh. Tính dục là một mầu nhiệm chính vì nó mang tính «biểu tượng» và tính hôn phối. Vì thế, nó cần phải được gìn giữ và trân trọng. Nó cần những lời lẽ cam kết được công bố ra ngày thành hôn. Giao hợp tình dục trong hôn nhân dẫn đến một kinh nghiệm sâu xa của hợp nhất.

Ngược lại, khi người ta quan hệ tình dục với nhiều người trước hay ngoài hôn nhân, mỗi lần quan hệ ta để rơi lại đó một mảnh của bản thân ta. Một phần của ta cho người này, một mảnh của ta cho người nọ, và vân vân... Ta bị phân xé trong nội tâm, và cuộc sống sẽ trở nên khó khăn hơn. Đức khiết tịnh giúp bảo vệ ta khỏi mối nguy hiểm này. Dĩ nhiên, giao hợp tính dục không chỉ là hành động của tình yêu. Nó còn là một hành động của sự sống. Hành vi tính dục có ý nghĩa vừa để kết hợp tình yêu vừa mở ngỏ cho sự sống từ đó có thể hình thành. Có người đưa ra lời khuyên sau đây. Khi bạn thường xuyên gặp gỡ hẹn hò với một người bạn khác phái, hãy tự hỏi: «Có thực sự tôi muốn có con với người đàn ông (phụ nữ) này hay không? Tôi có muốn làm mẹ (cha) của đứa con của người này hay không?». Câu hỏi này rất ý nghĩa. Nó giúp ta loại trừ nhiều người mà ta cảm nhận hấp dẫn về giới tính nhưng ta lại không muốn kết hôn với người ấy.

c. Nỗi thống khổ trong “Hôn nhân” với người đồng tính

Trong số những anh chị em đang sống xu hướng bị thu hút bởi người đồng giới (Same Sex Attraction – SSA), một số là đồng tính do mình lựa chọn, số khác thì không.[36] Những người thuộc nhóm thứ hai là những người cảm thấy mình như bị giam trong ngục tù mà không do chính mình xây dựng nên. Nghĩa là, có một nguyên nhân, về văn hóa hay gia đình, hoặc từ cả hai phía, vượt ngoài tầm kiểm soát của một con người, đặt người ấy ở trong tình thế bị hấp dẫn bởi một người khác cùng giới.

Một nhận định sau đây có thể giúp chúng ta hiểu rõ vấn đề hơn, đó là: chúng ta sinh ra đời với một giới tính có sẵn, là nam hay là nữ, nhưng đồng thời, nam tính hay nữ tính ấy của chúng ta vẫn còn ở phía trước chúng ta như một nhiệm vụ còn phải hoàn thành. Chủ thể nam giới có nhiệm vụ phải phát triển và nuôi dưỡng một nhân cách nam giới, và chủ thể nữ giới thì phải lo phát triển và nuôi dưỡng một nhân cách nữ giới. Vì nhiều lí do, nhiệm vụ này có thể gặp khó khăn chưa hoàn thành. Một khuyết điểm hay thất bại nào đó có thể cuối cùng dẫn tới có khuynh hướng chịu sự hấp dẫn đồng tính.

Dưới ánh sáng của Thần học về Thân xác, chúng ta hiểu rằng chịu sự thu hút giới tính từ người đồng giới là một hoàn cảnh đau thương. Thiên Chúa muốn đàn ông và đàn bà hấp dẫn nhau về giới tính. Họ được tạo dựng để cho nhau. Thân xác họ và con người họ bổ túc cho nhau. Họ tự thích ứng với nhau như thế nào đó để có thể «hợp nhất», nên «một xương một thịt».

Nhưng người đồng tính hay người chịu sự thu hút đồng giới (SSA) phải chịu hai nỗi thống khổ lớn. Thứ nhất, người ấy đau khổ bởi chính tình trạng mình bị hấp dẫn bởi người cùng giới. Đó thực là một nỗi đau. Trong họ có một cảm giác phân rã nào đó. Theo một nghĩa nào đó, người ấy đau đớn bởi cảm thấy như mình thiếu một căn tính cá nhân. Người ấy tự hỏi, tại sao tôi lại bị thu hút bởi người đồng giới trong khi đại đa số những người khác thì không như thế ? Thứ hai, người đồng tính đau khổ vì biết rằng hành vi tính dục đồng giới của họ không bao giờ có thể hoàn tất sự kết hợp họ «nên một xương một thịt» được. Một quan hệ tính dục đồng giới không bao giờ có thể hoàn thành được điều đó. Có hôn phối, nghĩa là sự kiện «hai người» kết hợp nên «một xương một thịt», thực sự là khi mà hai người diện đối diện, diễn tả tình yêu của họ và hợp hoan trên thân xác. Điều đó thì lại không thể xảy ra được nơi một quan hệ đồng tính. Hai người đàn ông, hay hai người đàn bà không thể đối diện với nhau, kết hợp với nhau và nên «một xương một thịt» được, vì các bộ phận sinh dục của họ không làm được chuyện đó. Đó là một dữ kiện cốt yếu, bởi lẽ, như chúng ta đã thấy, thân xác có tính «biểu tượng». Thân xác kết hợp chúng ta cả về mặt thể lí lẫn tâm linh: kết hợp thân xác diễn tả sự hiệp thông bên trong của các ngã vị.

Vì thế Hội thánh dạy rằng[37] sự nghiêng chiều về đồng tính luyến ái là «vô trật tự cách khách quan» và những hành vi đồng tính là tội lỗi. Hội thánh cũng lưu ý rằng đối với phần lớn những người bị sự thu hút đồng giới sự nghiêng chiều này là “một thử thách”. Những anh chị em này, cũng như mọi người bình thường khác, phải sống khiết tịnh phù hợp biết kiêng khem các hành vi tính dục đồng giới, và nhờ các nhân đức giúp tự chủ dạy cho họ sống sự tự do nội tâm. Hơn nữa, Hội thánh còn khẳng định rõ ràng rằng họ “phải được đón nhận với sự tôn trọng, thông cảm và tế nhị”.

Giám mục Luy Nguyễn Anh Tuấn

Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 95 (Tháng 07 & 08 năm 2016) 


THƯ MỤC

1. Giovanni Paolo II, Uomo e Donna lo creò, Città Nuova Editrice, Libreria Editrice Vaticana, Ed. V, 2001.

2. Percy, A., La théologie du corps décomplexée, Ed. Emmanuel, Paris 2007.

3. Harvey, J. E., OSFS, Homosexuality and The Catholic Church, Ascension Press, Philipino Edition, 2007

4. Fitzgibbons, R., «The origins and healing of homosexual attractions and behaviors», 2nd Pan American Conference on Family and Education, Toronto, Ontario, tháng 5 / 1996. X. https://www.catholiceducation.org/en/marriage-and-family/sexuality/origin-and-healing-of-homosexual-attractions-and-behaviors.html

5. Giovanni Cereti, Divorziati risposati: un nuovo inizio è possibile?, Cittadella Editrice, Assisi 2014


[1] X. St 2,24; 1,28.

[2] Vì thế, Hôn phối cùng với Bí tích Truyền chức thánh, được gọi là Bí tích xây dựng sự hiệp thông.

[3]X. St 2,18-21.

[4] X. Hs 3,1-3.

[5] X. Hs 11,7-9.

[6] X. Gr 2,2; 3,1-13; Ed 16 và 33.

[7] X. Đnl 6,5.

[8] X. Ed 16,59.

[9] X. Is 54,6.

[10] “Núi có dời có đổi, đồi có chuyển có lay, / tình nghĩa của Ta đối với ngươi vẫn không thay đổi, / giao ước hòa bình của Ta cũng chẳng chuyển lay, / Đức Chúa là Đấng thương xót ngươi phán như vậy”(Is 54,10).

[11] X. Mt 19,3-12; Mc 10,2-12.

[12] X. St 1,27; 2,24.

[13] Mc 10,10; Mt 19,6.

[14] «Thiên Chúa nhắm mắt bỏ qua những thời người ta không nhận biết Người» (Cv 17,30).

[15] X. Đnl 24,1-4.

[16] “Phàm ai ở trong Đức Kitô đều là thụ tạo mới” (2Cr 5,17).“Không còn phân biệt Do thái hay Hi lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Kitô” (Gl 3,28).

[17] X. Mt 19,10-12.

[18] X. Mt 5,48.

[19] 1Cr 7,10-11.

[20] Cfr. Rm 7,2-3; 1Cr 7,39; cfr. Mc 12,18-27 .

[21] Ambrogio, Comm. Sul vangelo di Luca, 8,6, in Sources Chrétiennes (S Chr) 52,103, Paris 1941 ss.

[22] Cereti G., Divorziati risposati, Cittadella Editrice, Assisi 20142, 33-40.

[23] Gioan-Phaolô II, Tiếp kiến chung  ngày 02/01/1980.

[24] X. 1Ga 4,18.

[25] X. St 3,7.

[26] X. St 3,12.

[27] X. St 3,16.

[28] GLHTCG, 2336.

[29] Gioan-Phaolô II, Tiếp kiến chung ngày 16/01/1980.

[30] X. St 4,1.

[31] St 1,28.

[32] Sách Khôn Ngoan viết: «Thiên Chúa không làm ra cái chết, chẳng vui gì khi sinh mạng tiêu vong. Vì Người đã sáng tạo muôn loài cho chúng hiện hữu» (Kn 1,13-14).

[33] GLHTCG, 2360.

[34] Gioan-Phaolô II, Tiếp kiến chung ngày 25/06/1980.

[35] Gioan-Phaolô  II, Tiếp kiến chung ngày 14/11/1979.

[36] R. Fitzgibbons, «The origins and healing of homosexual attractions and behaviors», 2nd Pan American Conference on Family and Education, Toronto, Ontario, tháng 5 / 1996.

[37] GLHTCG 2357-2358.

 

 

Nguồn tin: https://www.hdgmvietnam.com/