Gm. Phêrô Nguyễn Văn Viên
“Giáo hội là Gia đình của các gia đình, thường xuyên được làm phong phú bởi đời sống của tất cả các Giáo hội tại gia” (Amoris Laetitia, số 87).
Mạc khải Kinh Thánh Cựu Ước cho chúng ta biết rằng từ nguyên thủy Thiên Chúa sáng tạo muôn vật muôn loài, đồng thời, sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, để họ được chia sẻ sự sống và tình yêu của Người. Tuy nhiên, bản tính và phẩm giá con người trên bình diện cá nhân cũng như gia đình đã bị hư tổn vì tội lỗi. Để thực hiện chương trình phục hồi và cứu độ con người, Thiên Chúa bắt đầu bằng việc chọn Dân Do-thái làm Dân Riêng của Người, đồng thời, Người cho họ biết Người là Cha của họ và là Cội Nguồn của muôn vật muôn loài. Từ Dân Riêng của Người, Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa đã đến với gia đình nhân loại qua gia đình Na-da-rét.
Trong sứ mệnh ở trần gian, Đức Giêsu mạc khải rằng Thiên Chúa là Cha của Người Con Duy Nhất là chính Người, đồng thời, Người cũng mạc khải về Chúa Thánh Thần. Đức Giêsu còn mạc khải về sự duy nhất của Chúa Cha, Chúa Thánh Thần và Người trong chương trình cứu độ nhân loại. Cùng với Chúa Cha, Người gửi Chúa Thánh Thần đến với các môn đệ để tiếp tục chương trình của Thiên Chúa. Như vậy, theo mạc khải của Đức Giêsu, Thiên Chúa vừa là Một, vừa là Ba Ngôi, vừa là Duy Nhất, vừa là Gia Đình. Đồng thời, sự hiện diện của Đức Giêsu ở trần gian chính là sự hiện diện của Gia Đình Thiên Chúa. Các giao ước giữa Thiên Chúa và nhân loại trong lịch sử diễn ra trong bối cảnh gia đình (gia đình A-đam, gia đình Nô-ê, gia đình Áp-ra-ham, gia đình Mô-sê, gia đình Đa-vít) là những hình ảnh báo trước giao ước mới giữa Gia Đình Thiên Chúa và gia đình nhân loại được thực hiện bởi Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm người. Trong sứ mệnh dương thế, Đức Giêsu Kitô đã thiết lập Giáo Hội, để Giáo Hội tiếp tục sự hiện diện của Người ở trần gian.
Chủ đề bài viết ‘Giáo Hội như là Gia Đình Thiên Chúa và Giáo hội tại gia' là chủ đề rộng lớn, liên quan đến nhiều khía cạnh khác nhau từ thần học đến nhân loại học, từ xã hội học đến đạo đức học. Chúng ta giới hạn việc tìm hiểu chủ đề thông qua những điểm chính yếu thuộc nội dung đức tin Kitô Giáo, đồng thời, khai triển hình ảnh Giáo Hội như là Gia Đình Thiên Chúa và mối liên hệ mật thiết với gia đình, Giáo hội tại gia. Nội dung bài viết theo thứ tự như sau: (1) Khái niệm gia đình, (2) Gia Đình Thiên Chúa theo mạc khải Kinh Thánh, (3) Giáo Hội như là Gia Đình Thiên Chúa, và (4) Ưu điểm trong việc hiểu Giáo Hội như là Gia Đình Thiên Chúa.
Là con người, ai cũng có kinh nghiệm về gia đình, tuy nhiên, sẽ không bao giờ có câu trả lời xác đáng cho câu hỏi ‘gia đình là gì?', bởi vì, khái niệm này diễn tả thực thể (hay những thực thể) vừa tĩnh, vừa động, vừa cụ thể, vừa trừu tượng, vừa thuộc phạm trù văn hóa xã hội, vừa thuộc phạm trù kinh tế chính trị, vừa thuộc phạm trù triết học, vừa thuộc phạm trù thần học. Dạng thức chính yếu của gia đình, gia đình cơ bản, gia đình theo nghĩa thuần túy, gia đình như là tế bào của xã hội (cell of society) hay gia đình hạt nhân (nuclear family) là gia đình bao gồm một vợ một chồng (monogamous model) và con cái của họ chưa đến tuổi thành hôn. Đây là môi trường, nơi các đặc tính của con người như ngôi vị, tương quan, xã hội, văn hóa, truyền thống được đón nhận, sống và chuyển tải.
Gia đình mở rộng bao gồm gia đình cơ bản cùng với những người liên quan khác theo huyết tộc, chẳng hạn, ông, bà, cháu, chắt. Gia đình mở rộng cũng bao gồm những người họ hàng khác nữa, chẳng hạn, chú, bác, cậu, dì. Gia đình mở rộng còn có nghĩa là gia đình của những người thuộc cùng chủng tộc, bộ tộc hay thị tộc. Ngoài gia đình cơ bản, gia đình mở rộng, còn có gia đình hỗn hợp. Đây là hình thức gia đình mà vợ hoặc chồng hoặc cả hai có những hôn nhân mới cùng với con cái và các thành phần trong gia đình chung sống với nhau. Một số dân tộc trên thế giới còn duy trì hình thức gia đình đa thê (polygamous family), là gia đình trong đó người chồng cùng lúc có nhiều người vợ hay đa phu (polyandrous family), là gia đình trong đó người vợ cùng lúc có nhiều người chồng.[1]
Trong những thập niên gần đây, nghĩa gia đình cơ bản truyền thống bị biến dạng, người ta hiểu và sống bầu khí gia đình theo cảm nhận tự do của mình. Ở một số nơi, pháp luật dân sự cho phép họ thực hiện điều đó nhân danh tự do, nhân quyền và dân quyền. Theo nghĩa này, gia đình không nhất thiết bao gồm cha mẹ và con cái chưa kết hôn mà còn bất cứ hình thức nào, có thể là gia đình của những người đồng ý sống với nhau và lìa bỏ nhau bất cứ lúc nào hay những người sống với nhau theo lối ‘hợp đồng'. Khi ly thân, họ có thể sống một mình hoặc nếu có con, họ trở thành cha đơn thân nuôi con (single daddy) hay mẹ đơn thân nuôi con (single mom). Xem ra, xã hội hiện đại dễ dàng cổ xúy cho các hình thức gia đình này.
Ngoài gia đình liên quan đến vợ chồng, con cái, người ta còn dùng khái niệm gia đình để chỉ những thực thể khác trong môi trường nhân loại. Chẳng hạn, gia đình gắn liền yếu tố địa lý, như gia đình của những người trong một thôn, một xã, một huyện, một tỉnh, một quốc gia, một châu lục, toàn thế giới (gia đình nhân loại). Người ta cũng thường dùng khái niệm gia đình để chỉ các hội đoàn, tổ chức, tôn giáo, chẳng hạn, gia đình những người trong giáo họ, giáo xứ, giáo phận, gia đình đại chủng viện, gia đình dòng tu. Mỗi hình thức gia đình này lại bao gồm nhiều ‘lớp gia đình' khác nữa, chẳng hạn, gia đình các tu sĩ chiêm niệm, gia đình các tu sĩ ẩn tu, gia đình các tu sĩ lo việc bác ái tông đồ.[2]
Gia đình không chỉ mang tính sinh học, văn hóa, xã hội mà còn mang tính tâm linh và tôn giáo sâu sắc. Nhiều người, nhiều dân tộc trên thế giới xem mình là ‘hậu duệ của các thần minh' và họ có tương quan mật thiết với các thần minh. Đời sống của họ mang đậm âm hưởng của các thần minh. Họ đón nhận, sống và chuyển tải những giá trị niềm tin, truyền thống và thực hành liên quan đến thần minh qua các thế hệ. Hình thức gia đình này có thể bao gồm những người cùng hay không cùng huyết tộc, bởi vì, sự liên kết giữa họ không dựa vào những gì thuộc thế giới khả giác mà thuộc thế giới thần minh. Những yếu tố thần minh này quan trọng hơn là những yếu tố huyết tộc hay bất cứ yếu tố nào trong thế giới khả giác.
Đối với họ, những người trong gia đình qua đời không đi vào cõi tiêu diệt, nhưng được vinh thăng cùng thế giới thần minh, thế giới đáng trân trọng và đáng sống hơn thế giới khả giác. Việc tưởng nhớ ông bà tổ tiên không phải là quay về với kỷ niệm xa xưa mà là hiện thực hóa sự liên kết giữa người sống và người qua đời trong cùng gia đình. Các thành phần của gia đình có thể vươn xa đến tận thủy tổ và kéo dài mãi trong dòng lịch sử. Chẳng hạn, việc tưởng nhớ ông bà tổ tiên của nhiều dân tộc Châu Á là dịp để mọi người tỏ lòng tri ân, báo hiếu thế hệ trước, đồng thời, xin sự bầu cử của thế hệ trước cho mình và các thế hệ mai sau. Sự suy vong hay phồn thịnh của thế hệ sau được xem là hệ quả của thế hệ trước hay sự bất xứng của thế hệ sau đối với thế hệ trước. Theo họ, gia đình hữu hình là tạm thời còn gia đình vô hình luôn bền vững.
Mạc khải Kitô giáo cho chúng ta biết gia đình là thể chế đầu tiên, xuất hiện ngay từ buổi đầu sáng tạo và là thể chế căn bản nhất của nhân loại. Gia đình là hình thức tập thể, hình thức cộng đoàn bền vững hơn bất cứ hình thức tập thể, hình thức cộng đoàn nào khác trong nhân loại. Gia đình được thiết lập, hiện diện, hoạt động và tiếp tục trong dòng lịch sử cho đến tận thế. Chúng ta có thể nói rằng ‘cũ như gia đình' và cũng có thể nói ‘mới như gia đình'. Gia đình cũ vì ‘tuổi của gia đình' nhiều hơn tuổi của bất cứ thể chế nào. Tương tự như thế, gia đình luôn mới vì tương lai của gia đình dài hơn bất cứ tương lai của thể chế nào. Khi gia đình suy vong cũng là khi nhân loại không còn tồn tại.
Nội dung đức tin Kitô giáo cho chúng ta biết gia đình được thiết lập để đón nhận, sống và chuyển tải mạc khải của Thiên Chúa. Mọi người trong gia đình bình đẳng với nhau về phẩm giá và được mời gọi cộng tác với Thiên Chúa trong việc sáng tạo cũng như chăm sóc thế giới thụ tạo. Mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại và toàn thể thụ tạo được diễn tả qua hình ảnh gia đình.
Con người không thể hiện diện mà không có gia đình. Con người không thể là mình đúng nghĩa nếu không có kinh nghiệm về gia đình. Con người không thể là thành phần của xã hội đúng nghĩa bao lâu chưa ý thức mình thuộc về gia đình và có trách nhiệm đối với gia đình. Theo Công Đồng Vatican II, “gia đình là một trường học phát triển nhân tính.”[3] Từ gia đình, nền tảng cấu trúc xã hội (social foundation), mỗi người được nuôi dưỡng, được học hành, được làm quen với chuẩn mực xã hội và được định hình về nhân cách cũng như những kinh nghiệm quý giá cho cuộc sống trong xã hội.[4] Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo khẳng định: “Chính trong gia đình, người ta học biết làm việc với sự nhẫn nại và niềm vui, yêu thương huynh đệ, quảng đại tha thứ luôn, nhất là phụng thờ Thiên Chúa qua kinh nguyện và hy lễ đời sống.”[5] Gia đình là nơi con người nhận ra căn tính của mình như là thực tại có khả năng thể hiện tình yêu và cảm nhận tình yêu từ những người khác cách đúng nghĩa nhất.
Không nghi ngờ gì nữa, lịch sử gia đình nhân loại có được sự chuyển biến tích cực nhờ mạc khải Kitô Giáo. Quả thật, Kinh Thánh Kitô Giáo đặt nền tảng cho những khám phá, suy tư và thực hành đời sống gia đình cách đúng nghĩa nhất. Hơn ai hết, Đức Giêsu Kitô đã mạc khải về Gia Đình Thiên Chúa và đặt nền tảng vững chắc cho gia đình cơ bản cũng như các hình thức gia đình khác trên thế giới. Người thiết lập Gia Đình Thiên Chúa ở trần gian là Giáo Hội để phục vụ tất cả mọi người. Trong bối cảnh thế giới khủng hoảng về gia đình hay không có ý thức đủ về tầm quan trọng của gia đình, việc tìm hiểu nội dung đức tin Kitô Giáo cho phép chúng ta nhận thức đúng đắn hơn về căn tính, đời sống và sứ mệnh của các hình thức gia đình trong hành trình dương thế.
Theo Kinh Thánh Cựu Ước, trong buổi đầu sáng tạo, Thiên Chúa không nói rằng “ta hãy làm ra con người theo hình ảnh ta, giống như ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất”, nhưng nói rằng “chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất” (St 1,26). Ở đoạn khác trong sách Sáng Thế cũng tương tự như vậy, Thiên Chúa nói: “Này con người đã trở thành như một kẻ trong chúng ta, biết điều thiện điều ác” (St 3, 22). Chủ từ của hành động ‘nói' là Thiên Chúa ở số nhiều (chúng ta). Các nhà chú giải tranh luận sôi nổi về những câu Kinh Thánh trong đó Thiên Chúa diễn tả chính mình ở số nhiều, ngôi thứ nhất. Những người muốn bảo vệ niềm tin độc thần cách nghiêm ngặt có thể cho rằng Thiên Chúa nói như vậy với các thiên thần trong tâm trí hoặc một số người khác có thể cho rằng tác giả sách Sáng Thế, cách nào đó, còn chịu ảnh hưởng của não trạng đa thần. Tuy nhiên, chúng ta có thể xem đây như là ‘những mạc khải sơ khởi' về Gia Đình Thiên Chúa. Mạc khải này dần được biểu lộ trong các sách khác của Kinh Thánh Cựu Ước và rõ ràng hơn trong Biến Cố Đức Kitô của Tân Ước.
Chúng ta biết rằng từ ‘gia đình' theo cách hiểu hiện đại không được dùng trong Kinh Thánh Cựu Ước, tuy nhiên, nghĩa ‘gia đình' lại rất phổ biến, ngay từ những trang đầu của sách Sáng Thế.[6] ‘Con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa' được xem là mạc khải tột đỉnh về căn tính và phẩm giá con người theo Kinh Thánh Cựu Ước. Con người không phải là Thiên Chúa, nhưng cũng không xa lạ với Thiên Chúa. Con người là thụ tạo của Thiên Chúa, nhưng trổi vượt trên tất cả thụ tạo khác. Tác giả Thánh Vịnh đã thốt lên: “Chúa cho con người chẳng thua kém thần linh là mấy” (Tv 8,6). Chúng ta có thể giải thích ‘hình ảnh Thiên Chúa' ở đây không chỉ nói về những con người đơn lẻ, những cá nhân, những ngôi vị riêng biệt, mà còn là hình ảnh ‘con người tập thể', ‘con người cộng đoàn', con người trong tương quan, hiệp nhất, yêu thương, nói cách khác ‘con người gia đình'. Theo nghĩa này, chúng ta có thể suy luận rằng ‘Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa', đồng thời, Người cũng ‘sáng tạo gia đình con người theo hình ảnh Gia Đình Thiên Chúa'.
Cả hai trình thuật Sáng Thế (St 1,1-2,4 và St 2,5-25) đều diễn tả gia đình đầu tiên, trong đó, trình thuật thứ nhất nói đến người nam và người nữ rằng: “Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ” (St 1,27), còn trình thuật thứ hai nói đến ‘con người' và ‘vợ mình' rằng: “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy cái xương sườn đã rút từ con người ra, làm thành một người đàn bà và dẫn đến với con người” (St 2,22). Trình thuật thứ nhất nhấn mạnh đến sự phân biệt giữa nam và nữ, đồng thời, đề cao sự kết hợp của nam và nữ trong việc sinh hoa kết trái để làm cho gia đình nhân loại ngày càng phát triển. Trình thuật thứ hai nhấn mạnh đến sự bổ trợ cần thiết giữa nam và nữ vì ‘con người ở một mình thì không tốt' (St 2, 18). Người nam cần người nữ và ngược lại, người nữ cần người nam. Họ trở nên ‘một xương một thịt' nhằm làm cho đời sống họ được phong phú và cộng tác với Thiên Chúa trong chương trình của Người.[7]
Trong khi chúng ta có ít kinh nghiệm về Gia Đình Thiên Chúa, chúng ta lại có nhiều kinh nghiệm về gia đình con người, bởi vì, tất cả chúng ta ai cũng là ‘con người của gia đình'. Sách Sáng Thế không dùng từ ‘gia đình', tuy nhiên, nghĩa của gia đình thực sự đã được diễn tả cách cụ thể rằng: “Người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình và cả hai thành một xương một thịt” (St 2, 24). Họ được mời gọi để tạo nên gia đình và “sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất và thống trị mặt đất... làm bá chủ cá biển, chim trời và mọi giống vật bò trên mặt đất” (St 1, 28). Cấu trúc cơ bản của gia đình bao gồm cha mẹ và con cái đã được Thiên Chúa thiết lập và chúc phúc ngay từ buổi đầu sáng tạo và cấu trúc này tiếp tục trong hành trình lịch sử nhân loại cho đến tận thế.
Trong công trình sáng tạo của Thiên Chúa, muôn vật muôn loài không được tạo dựng như là những thực tại riêng lẻ, nhưng là những thực tại liên đới, lệ thuộc lẫn nhau và hiệp thông với nhau. Đối với con người, sự hiệp thông và phụ thuộc lẫn nhau được diễn tả qua bối cảnh gia đình của A-đam và E-và, gia đình đầu tiên của nhân loại. Gia đình này vừa là hình ảnh của gia đình cơ bản, gia đình hạt nhân, tế bào xã hội, vừa là hình ảnh của gia đình nhân loại rộng lớn. Nói cách khác, A-đam và E-và trở thành thủy tổ của nhân loại và những gì thuộc về A-đam và E-và cũng thuộc về toàn thể nhân loại trên bình diện cá nhân cũng như tập thể.
Câu chuyện A-đam và E-và, câu chuyện của gia đình đầu tiên vẫn còn nguyên giá trị đối với các hình thức gia đình trong nhân loại. Sự yếu đuối, tự do, phẩm giá và trách nhiệm của A-đam và E-và vẫn còn đó trong tâm tính của tất cả mọi người qua muôn thế hệ. Như A-đam và E-và, con người có thể chọn lựa giữa trung tín và bất tín, giữa tình yêu chân thực của Thiên Chúa và cám dỗ của ma quỷ, thế gian, xác thịt: Cám dỗ để khám phá, cám dỗ để khẳng định mình, cám dỗ để được tự lực tự cường, tự quyết định số mệnh của mình, cám dỗ để không còn bị ràng buộc nào, cám dỗ để thoát khỏi các tương quan lành mạnh.
Câu hỏi đặt ra ‘đâu là hình ảnh Thiên Chúa điển hình nhất trong nhân loại'? Thưa đó chính là tình yêu. Người nam và người nữ yêu thương nhau, bổ túc cho nhau. Tình yêu của họ trổ sinh bông hạt là con cái diễn tả rõ nét nhất tình yêu của Thiên Chúa. Cấu trúc gia đình bền vững và được Thiên Chúa đặt ở bậc ‘giao ước' chứ không phải ở bậc ‘liên kết', ‘hợp đồng', ‘tương quan tạm thời' hay bất cứ thứ bậc nào trong xã hội loài người. Mục đích của ‘giao ước' là để người nam và người nữ trọn đời hiệp nhất yêu thương nhau, đồng thời, trở thành chỗ dựa vững chắc cho con cái. Như thế, hình ảnh người nam, người nữ và con cái họ được xem là hình ảnh rõ nhất cho phép chúng ta suy niệm và tiếp cận Thiên Chúa. Theo Kinh Thánh, ‘con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa' chứ không phải ‘người nam (hay người nữ) được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa'.
Phần đầu sách Sáng Thế (St 1-11) trình bày việc sáng tạo muôn loài cũng như con người với những nhân vật như A-đam và E-và, Ca-in và A-ben, Nô-ê và con cháu ông cùng những người xây tháp Ba-ben mang nghĩa tiên trưng và ẩn dụ.[8] Phần kế tiếp của sách Sáng Thế trình bày lịch sử của dân tộc được Thiên Chúa tuyển chọn với người đại diện là Áp-ra-ham, trong đó Thiên Chúa diễn tả mình như người Cha, còn Áp-ra-ham và con cháu ông là Dân Người (St 12-50). Tương quan giữa Thiên Chúa và Dân Người là tương quan gia đình. Đây là điều mới mẻ của mạc khải Do-thái giáo so với các tôn giáo tồn tại trong lịch sử nhân loại trước đó hay cùng thời. Đối với đa số các tôn giáo quanh vùng Địa Trung Hải lúc bấy giờ, Hữu Thể Tối Cao, Thượng Đế, Thiên Chúa, Đấng Siêu Việt hoặc là quá xa xôi đối với con người hoặc mang những đặc tính như con người vậy, nghĩa là, có giận hờn, ghen ghét, tranh giành ảnh hưởng trong thế giới thụ tạo. Thiên Chúa của Dân Do-thái là Thiên Chúa yêu thương, Thiên Chúa của tương quan lành thánh, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, I-xa-ác, Gia-cóp và ‘nhà Ít-ra-en' là ‘nơi Thiên Chúa ngự'.
Kinh Thánh Cựu Ước còn cho chúng ta biết về Áp-ra-ham và vai trò của ông trong lịch sử của Thiên Chúa đối với Dân Do-thái. Hình ảnh Áp-ra-ham không phải là hình ảnh của một hoàng đế hay vua chúa. Hình ảnh của Áp-ra-ham cũng không phải là hình ảnh của người chỉ huy hay người lãnh đạo, không phải hình ảnh một tư tế hay ngôn sứ. Trước hết, hình ảnh Áp-ra-ham là hình ảnh của người cha trong gia đình. Hơn thế nữa, Áp-ra-ham không chỉ là hình ảnh của người cha trong một gia đình đơn lẻ, gia đình cơ bản, mà còn là người cha chung của muôn người (St 12, 3).
Thiên Chúa bày tỏ mục đích của Người đối với Áp-ra-ham: “Ta đã chọn nó, để nó truyền cho con cái nó và gia tộc nó sau này phải giữ đường lối của Đức Chúa mà thực hiện điều công minh chính trực” (St 18,19). Thiên Chúa yêu thương, kêu gọi và làm cho Áp-ra- ham trở thành cha của Dân Người, cha của tất cả những kẻ tin.[9] Như thế, chương trình của Thiên Chúa đối với Áp-ra-ham, đối với Dân Do-thái là chương trình gia đình trước bất cứ chương trình nào khác. Đến lượt mình, Áp-ra-ham ý thức điều đó, đồng thời, ông luôn vâng lệnh Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh, ngay cả việc sát tế đứa con duy nhất nối dõi tông đường, để duy trì sự tồn tại và phát triển của gia đình, ông vẫn không chối từ.
Điều đáng để chúng ta quan tâm là gia đình Do-thái trong Cựu Ước được hiểu theo nghĩa gia đình mở rộng hơn là gia đình cơ bản, chẳng hạn, Thiên Chúa nói với Mô-sê: “Ta là Thiên Chúa của cha ngươi, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, Thiên Chúa của Gia-cóp” (Xh 3,6). Áp-ra-ham, I-xa-ác, Gia-cóp không trực tiếp sinh ra Mô-sê, tuy nhiên, họ là cha của Mô-sê cũng như cha của toàn thể con cái Ít-ra-en cho dù khoảng cách giữa những con người này là hàng trăm năm lịch sử. Áp-ra-ham luôn được hiểu là tổ phụ của Dân Do-thái theo huyết thống và là tổ phụ của tất cả mọi người tin vào Thiên Chúa mà Áp-ra-ham và con cháu ông tin, nhờ Áp-ra-ham, muôn dân được phúc lành của Thiên Chúa.[10]
Khi đề cập đến các giới răn trong Cựu Ước, đặc biệt đối với Mô-sê, chúng ta thấy rằng lời của Mô-sê với Dân Do-thái được đặt trong bối cảnh gia đình mở rộng. Chẳng hạn, đối với giới răn quan trọng nhất, giới răn mến Chúa, Mô-sê nói: “Nghe đây, hỡi Ít-ra-en! Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), hết lòng hết dạ, hết sức anh (em). Những lời này tôi truyền cho anh (em) hôm nay, anh (em) phải ghi tạc vào lòng. Anh (em) phải lặp lại những lời ấy cho con cái, phải nói lại cho chúng, lúc ngồi trong nhà cũng như lúc đi đường, khi đi ngủ cũng như khi thức dậy” (Đnl 6,4-7). Mô-sê luôn quan tâm đến hiệu lực của giới răn Thiên Chúa trong đời sống của gia đình Dân Do-thái. Mô-sê hiểu rằng giới răn luôn đồng hành cùng gia đình Dân Do-thái trong khi các cá nhân lần lượt ra đi.
Kinh Thánh Cựu Ước còn dùng hình ảnh hôn nhân gia đình để diễn tả tương quan giữa Thiên Chúa và Dân Do-thái. Hôn nhân giữa Thiên Chúa và Dân Do-thái bền vững về phía Thiên Chúa, nhưng lại dễ bị tổn thương về phía Dân Do-thái. Người chồng yêu thương người vợ diễn tả Thiên Chúa yêu thương Dân Do-thái. Sự trung tín vợ chồng diễn tả sự trung tín của Dân Do-thái đối với Thiên Chúa. Tương tự như vậy, sự bất tín vợ chồng diễn tả sự bất tín của Dân Do-thái đối với Thiên Chúa. Trong mọi hoàn cảnh, Thiên Chúa sống tinh thần giao ước còn Dân Do-thái sống tinh thần hợp đồng. Thiên Chúa đề cao những giá trị vĩnh cửu, Dân Do-thái đề cao những giá trị tạm thời và chạy theo bóng dáng của những gì vinh hoa thế tục hão huyền. Trong sách ngôn sứ Giê-rê-mi-a, Thiên Chúa nói: “Người đàn bà thất trung với bạn mình làm sao, thì, hỡi nhà Ít-ra-en, các ngươi cũng thất trung với Ta như vậy” (Gr 3,20). Tuy nhiên, lịch sử Cựu Ước cho chúng ta thấy rằng sự bất tín của Dân Do-thái nói riêng và toàn thể nhân loại nói chung không thể phá vỡ chương trình tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại và thế giới thụ tạo. Gia đình nhân loại bị méo mó, băng hoại, tuy nhiên, không bị triệt tiêu, trái lại, được khôi phục nhờ tình yêu vô biên của Thiên Chúa, tình yêu vượt thắng tội lỗi nhân loại.
Dân Do-thái nhận thức rằng Thiên Chúa là Cha của dân tộc họ. Do đó, Thiên Chúa luôn yêu thương họ cho dù họ lắm phen ngỗ nghịch, bất xứng. Đối với họ, sự trở về với Thiên Chúa, sự trở về với Cha mình luôn là điều cần thiết để đón nhận sự tha thứ và phúc lành, bởi vì, càng xa rời Thiên Chúa bao nhiêu, họ càng lâm cảnh lầm than cơ cực bấy nhiêu. Hơn thế nữa, càng xa rời Thiên Chúa, họ càng dễ rơi vào tay của những thế lực ngoại bang và gần hơn với sự hủy diệt. Kinh nghiệm lịch sử dạy cho họ rằng Thiên Chúa luôn kiên nhẫn với họ và giữ lời hứa với cha ông họ qua muôn ngàn thế hệ.
Như đã được đề cập ở trên, trong Cựu Ước, Thiên Chúa mạc khải là Cha của Dân Do-thái và là nguồn gốc của muôn vật muôn loài.[11] Những người thuộc Do-thái giáo và Kitô giáo đều tuyên xưng Thiên Chúa duy nhất, nhưng ý niệm Thiên Chúa Ba Ngôi thì chưa hề tồn tại trong Do-thái giáo. Hơn thế nữa, khi nói Thiên Chúa là gia đình và Đức Giêsu Kitô từ Gia Đình Thiên Chúa đến với gia đình nhân loại để thiết lập Gia Đình Thiên Chúa ở trần gian thì lại càng xa lạ đối với những người Do-thái giáo. Thực ra, việc nhận thức Thiên Chúa là Gia Đình và Thiên Chúa thiết lập Gia Đình của Người trong môi trường nhân loại không phát xuất từ suy tư của con người, nhưng từ mạc khải căn bản của Tân Ước.
Chúng ta biết rằng tương quan giữa Thiên Chúa và Dân Do-thái trong bối cảnh gia đình đạt tới đỉnh điểm trong Biến Cố Đức Kitô, khi thời gian tới hồi viên mãn. Với Biến Cố này, Thiên Chúa thiết lập Gia Đình Người ở trần gian để Gia Đình Người lớn mạnh và lan rộng khắp nơi. Gia Đình Thiên Chúa đã được tiên báo ngay từ buổi đầu sáng tạo (St 3,15), hiện diện trong lịch sử nhân loại, đặc biệt, lịch sử gia đình Dân Do-thái. Với Biến Cố Đức Kitô, Thiên Chúa mạc khải rằng Người không chỉ là Thiên Chúa của Áp-ra-ham, I-xa-ác, Gia-cóp và con cháu của họ, mà còn là Thiên Chúa của muôn dân muôn nước.
Với Gia Đình Thiên Chúa hiện diện ở trần gian, Thiên Chúa ‘không liên lạc với nhân loại từ xa' như Người đã thực hiện qua những người lãnh đạo Do-thái hay các ngôn sứ trong Cựu Ước, nhưng qua Con của Người, Đức Giêsu Kitô. Nhờ Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa đã trở thành Em-ma-nu-en, Thiên Chúa trở thành Thiên- Chúa-ở-cùng-chúng-ta. Người hiện diện và hoạt động trong gia đình nhân loại để thông phần bấp bênh, bất hòa hợp và đau khổ của gia đình nhân loại trong hành trình tiến về Gia Đình Thiên Chúa sung mãn. Đức Giêsu Kitô mạc khải cho nhân loại biết gia đình nhân loại được hình thành, hiện diện và tiếp tục trong dòng lịch sử là nhờ Gia Đình Thiên Chúa.
Đức Giêsu cũng tỏ cho nhân loại biết Người là Con Thiên Chúa, Đấng là nguyên ủy và cứu cánh của mọi người cùng toàn thể thế giới thụ tạo. Hơn thế nữa, Đức Giêsu còn mạc khải về Chúa Thánh Thần. Trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi” (Ga 14,16) và “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14,26). Thiên Chúa là Cha của Đức Giêsu Kitô và Chúa Thánh Thần phát xuất từ Thiên Chúa Cha và từ Đức Giêsu Kitô. Karl Rahner (1904-1984), nhà thần học xuất chúng thế kỷ XX, viết: “Chúa Ba Ngôi cứu độ chính là Chúa Ba Ngôi nội tại và ngược lại.”[12] Theo cách hiểu của Karl Rahner và với ngôn ngữ gia đình, chúng ta có thể nói rằng Gia Đình Chúa Ba Ngôi trong chương trình cứu độ cũng chính là Gia Đình Chúa Ba Ngôi nội tại. Như vậy, nhờ Đức Giêsu Kitô và trong Chúa Thánh Thần, Thiên Chúa mạc khải cho nhân loại những điều mà với khả năng tự nhiên, nhân loại không thể nhận thức được. Thiên Chúa duy nhất và Ba Ngôi, Thiên Chúa là một và là cộng đoàn các Ngôi Vị, Thiên Chúa là gia đình.
Từ muôn thuở, Đức Giêsu thuộc Gia Đình Thiên Chúa. Với Biến Cố Nhập Thể, Người cũng thuộc gia đình nhân loại và trở thành thành phần trong gia đình nhân loại.[13] Vốn dĩ thuộc về môi trường Thiên Chúa, Đức Giêsu mạc khải cho nhân loại về môi trường này, đồng thời, Người làm cho toàn thể mọi người trong gia đình nhân loại được nối kết với Gia Đình Thiên Chúa. Khi thuộc về môi trường gia đình nhân loại, Đức Giêsu đã học cho biết môi trường này. Tác giả thư gửi tín hữu Do-thái viết: “Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục” (Dt 5,8). Với Người, gia đình nhân loại không còn phải bước đi trong cảnh mù tối của thế gian, của sự dữ, nhưng được bước đi trong ánh sáng ban sự sống của Người. Đồng thời, Đức Giêsu còn mở ra cho nhân loại hừng đông mới về Gia Đình Thiên Chúa viên mãn.
Đức Giêsu sinh ra và lớn lên trong gia đình Na-da-rét. Dưới nhãn quan những người đương thời, Người có bố làm nghề thợ mộc, tên là Giuse, mẹ là Maria, anh chị em họ hàng của Người là Gia- cô-bê, Giô-xếp, Si-môn, Giu-đa (Mt 13, 55). Đức Giêsu lịch sử hiện diện ở trần gian 33 năm thì 30 năm sống với gia đình.[14] Người sinh ra và lớn lên trong bối cảnh tôn giáo và văn hóa Do-thái. Người được giáo dục để tuân giữ và thực hành các tập tục Do-thái. Thánh Giuse và Đức Maria thi hành đầy đủ các bổn phận của những người Do- thái đối với bản thân mình cũng như đối với Đức Giêsu. Khi trưởng thành, Đức Giêsu vào đền thờ trong những ngày Sa-bát. Người tuân giữ và khuyến khích người khác tuân giữ luật Thiên Chúa. Hơn thế nữa, Đức Giêsu chỉ cho mọi người biết đâu là điểm căn bản trong việc tuân giữ lề luật Thiên Chúa (Mt 5, 17-48).
Đức Giêsu cho chúng ta biết sự liên kết giữa Người và Chúa Cha sâu thẳm đến nỗi Người với Chúa Cha là một (Ga 10, 30; Ga 17,22). Người cũng muốn rằng tất cả nhân loại, cùng với Người, trở nên một trong Chúa Cha. Sự liên kết này bền vững và sâu nhiệm hơn bất cứ sự liên kết gia đình nào mà chúng ta có thể cảm nhận được. Đó là lý do tại sao Người nói: “Anh em cũng đừng gọi ai dưới đất này là cha của anh em, vì anh em chỉ có một Cha là Cha trên trời” (Mt 23,9). Chúng ta đạt được sự liên kết này khi chúng ta thực thi giới răn mới của Người (Ga 13,34-35; Ga 15,15). Người dạy các môn đệ cũng như những ai theo Người qua muôn thế hệ cầu nguyện với câu mở đầu thân thương: ‘Lạy Cha chúng con ở trên trời'. Câu mở đầu này gợi lên hai điểm chính: (1) Thiên Chúa là Cha của tất cả mọi người và (2) mọi người là anh chị em của nhau. Như thế, mỗi người trong nhân loại vừa là con cái của một gia đình cá biệt nào đó hay thuộc về những hình thức gia đình mở rộng nào đó, vừa là con cái của Gia Đình Thiên Chúa.
Tương quan giữa nhân loại và Thiên Chúa là tương quan Cha con, tương quan gia đình chứ không phải là tương quan của những người trong một hội đoàn hay tổ chức văn hóa xã hội nào đó, cũng không phải là tương quan giữa vua chúa với thần dân, cũng không phải tương quan giữa những người lãnh đạo và thuộc cấp của mình. Do đó, khi nói sự yêu thương của Thiên Chúa đối với nhân loại cần được hiểu là sự yêu thương được diễn tả qua hình ảnh của người cha hay người mẹ đối với con cái chứ không phải là sự yêu thương theo một hình thức nào khác. Sự tha thứ của Thiên Chúa đối với nhân loại cũng vậy, cần được hiểu qua hình ảnh sự tha thứ của người cha hay người mẹ đối với con cái mình, chứ không phải là sự tha thứ nào khác.
Dụ ngôn Người Cha Nhân Hậu (Lc 15,11-32) kể về sự bất xứng ‘hết thuốc chữa' của người con và lòng nhân từ ‘không thể hơn nữa' của người cha. Người con nhận ra sự bất xứng của mình đến nỗi không dám nhận mình là con của người cha. Trong khi đó, tâm trí người cha không bao giờ vắng bóng người con, hình ảnh người con vẫn còn đó cho dù người con bất tuân và ngỗ nghịch tột độ. Người con đánh mất phẩm giá của mình vì sự tự do ích kỷ, còn người cha hồi phục phẩm giá cho người con theo cách mà người con không bao giờ nghĩ tới.
Dụ ngôn này cho phép chúng ta suy tư về A-đam, người con hoang đàng trong buổi đầu sáng tạo, về Dân Do-thái và toàn thể nhân loại trong dòng lịch sử, hiện tại cũng như tương lai. Thiên Chúa
chính là người Cha nhân hậu luôn kiên nhẫn chờ đợi sự trở về của những người con, những người con xa lánh người Cha vì tội Nguyên Tổ, tội cá nhân, tội tập thể. Gia đình của người cha còn trống trải, còn giá lạnh bao lâu những người con hoang đàng chưa trở về đoàn tụ. Hình ảnh người con hoang đàng là hình ảnh của tất cả chúng ta. Bởi vì, không ai trong chúng ta lại miễn nhiễm tính cách của người con hoang đàng trong dụ ngôn Đức Giêsu trình bày.
Với dụ ngôn này, Đức Giêsu cho chúng ta biết tình yêu Thiên Chúa đối với con người không phải là thứ tình yêu trừu tượng, tình yêu xa lạ, nhưng là tình yêu mà con người có thể cảm nghiệm được. Bởi vì, ai cũng có kinh nghiệm về tình yêu của những người trong gia đình, đặc biệt là tình yêu giữa cha mẹ và con cái. Trong bối cảnh văn hóa Do-thái, Đức Giêsu dùng hình ảnh tình yêu giữa người cha đối với người con để diễn tả tình yêu Thiên Chúa đối với con người. Điều này không ngăn cản chúng ta hiểu cách tương tự rằng tình yêu giữa người mẹ và người con cũng là hình ảnh diễn tả tình yêu Thiên Chúa đối với con người. Với dụ ngôn này cùng nhiều hình ảnh hay biểu tượng khác, Đức Giêsu mở ra cho chúng ta thấy tình yêu vô biên của Thiên Chúa đối với con người, tình yêu tha thứ vô điều kiện.
Tân Ước mạc khải rằng Thiên Chúa đã ban cho thế gian chính Con của Người để mọi người có thể trở thành con Thiên Chúa. Khi Đức Giêsu ở tuổi mười hai, lần đầu tiên lên Giê-ru-sa-lem, Người mạc khải chính mình là Con Thiên Chúa trước sự ngỡ ngàng của Đức Maria và thánh Giuse (Lc 2,41-52). Đức Giêsu đã nói với Đức Maria và thánh Giuse: “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?” (Lc 2, 49). Tuy nhiên, cha mẹ Đức Giêsu đã không hiểu được những lời Người vừa nói. Chúng ta biết trong khi Đức Maria và thánh Giuse chỉ để tâm đến Đức Giêsu là con của mình mà chưa ý thức đủ rằng, trước hết, Người là Con Thiên Chúa và cần thi hành bổn phận Gia Đình Thiên Chúa, còn bổn phận gia đình Na-da-rét là hiệu quả của bổn phận Gia Đình Thiên Chúa.
Thánh Mác-cô kể lại rằng, khi đám đông đang ngồi chung quanh Đức Giêsu thì có mẹ và anh em của Người đứng ở ngoài báo tin về sự hiện diện của họ, Đức Giêsu đã đặt câu hỏi: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?” (Mc 3,33). Sau đó, Người nói với những người chung quanh: “Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi” (Mc 3,35). Chúng ta biết rằng Đức Giêsu không hề xem nhẹ gia đình tự nhiên, Người không hề nói rằng Đức Maria không phải là mẹ mình hoặc người mẹ tự nhiên không quan trọng bằng người mẹ siêu nhiên. Thực ra, Đức Giêsu mạc khải cho chúng ta biết ngoài gia đình tự nhiên còn có gia đình siêu nhiên. Trong khi gia đình tự nhiên bị giới hạn bởi không gian, thời gian, huyết tộc và nhiều yếu tố khác nữa thì gia đình siêu nhiên là gia đình không biên giới; gia đình siêu việt không gian, thời gian; gia đình bao gồm người sống, kẻ chết, người thánh thiện, kẻ bất lương; gia đình mà không một chuẩn mực nào trong thế giới thụ tạo có thể đo lường được. Dù vậy, theo một nghĩa nào đó, Tân Ước cho chúng ta biết dường như có sự căng thẳng giữa gia đình theo nghĩa hẹp là gia đình tự nhiên và gia đình theo nghĩa rộng là gia đình siêu nhiên mà Đức Giêsu mời gọi mọi người quan tâm.
Trong sứ mệnh của mình, Đức Giêsu quan tâm đặc biệt tới những nạn nhân của gia đình đổ vỡ, những người ‘bên lề' của gia đình chính thống hay những người bị loại bỏ, khinh chê. Chẳng hạn, Đức Giêsu thăm nhà ông Gia-kêu, ở lại ăn uống với mọi người trong gia đình ông. Người quan tâm đến những người đầu đường xó chợ, những người lang thang phiêu bạt, những người nghèo khổ không có nhà đúng nghĩa. Cuộc sống của Đức Giêsu trong thời gian rao giảng cũng là ‘cuộc sống không nhà'. Chính Người nói: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Mt 8,20). Đức Giêsu đã trải qua kinh nghiệm cuộc sống không nhà để dạy cho mọi người ngôi nhà đúng nghĩa nhất là Nhà Thiên Chúa. Đồng thời, Người dạy các môn đệ của mình xưa kia cũng như tất cả mọi người trong dòng lịch sử biết mở rộng tâm hồn đón nhận gia đình của Người.
Đức Giêsu kêu gọi các môn đệ đầu tiên khi họ đang thi hành công việc gia đình mình (Mc 1,16-20; Mt 4,18-22; Lc 5,1-11). Người ở với họ để dạy dỗ, hướng dẫn và trao ban sứ mệnh tiếp tục chương trình của Người ở trần gian. Đức Giêsu cũng quan tâm đặc biệt tới gia đình của họ, chẳng hạn, Người đến thăm gia đình mẹ vợ Phêrô (Mt 8,14-15). Người yêu mến mọi người trong gia đình Maria, Mác- ta và La-da-rô (Ga 11,1-44). Chúng ta nhận thức rằng tương quan gia đình trong cộng đoàn của Đức Giêsu là tương quan chiếm ưu thế so với các tương quan khác, chẳng hạn, tương quan giữa thầy và trò, tương quan giữa người đứng đầu và những người còn lại trong cộng đoàn. Đây được xem là giai đoạn khởi đầu của việc Đức Giêsu thiết lập Gia Đình Thiên Chúa ở trần gian. Đối với Đức Giêsu, Gia Đình Thiên Chúa siêu việt trên tất cả các biên giới và rào cản của gia đình nhân loại: biên giới huyết tộc, bộ tộc, dân tộc, quốc gia, châu lục, phái tính, đẳng cấp trong xã hội loài người. Các thành phần của Gia Đình Thiên Chúa cần mở rộng tâm hồn đối với gia đình này, đồng thời, trung tín với gia đình này trong cuộc sống và ơn gọi của họ.
Theo tường thuật của thánh Gioan, dấu lạ đầu tiên Đức Giêsu thực hiện trong sứ mệnh rao giảng Tin Mừng là làm cho nước trở nên rượu tại tiệc cưới Cana (Ga 2,1-12). Chính Đức Maria là người nhận ra sự khó xử của gia chủ tổ chức đám cưới đối với khách tới dự. Nhờ Đức Maria, dấu lạ nước trở nên rượu được thực hiện và đem lại niềm vui cho cả gia chủ lẫn thực khách. Kinh nghiệm dấu lạ này là động lực thúc đẩy mọi người tham dự tiệc cưới Cana xưa kia cũng như tất cả chúng ta hôm nay quan tâm hơn đến những khó khăn trong đời sống gia đình và sự cần thiết nâng đỡ nhau để có thể vượt qua những khó khăn này. Cũng trong tiệc cưới Cana, Đức Giêsu gọi Đức Maria là ‘bà'. Người muốn mạc khải rằng gia đình của Người siêu việt trên tất cả các gia đình huyết thống hay các hình thức gia đình mở rộng theo nghĩa nhân học.
Chúng ta tìm được khá nhiều trình thuật trong Kinh Thánh Tân Ước đề cập đến việc tất cả mọi người được mời gọi trở thành con cái trong Gia Đình Thiên Chúa. Chẳng hạn, Đức Giêsu nói: “Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa” (Mt 5,9). Thánh Gioan Tông Đồ thì viết: “Những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người [Đức Giêsu], thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa” (Ga 1,12). Thánh nhân cũng viết cho các tín hữu: “Anh em hãy xem Chúa Cha yêu chúng ta dường nào: Người yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa, mà thực sự chúng ta là con Thiên Chúa” (1 Ga 3,1). Thánh Phao-lô thì khẳng định: “Nhờ đức tin, tất cả anh em đều là con cái Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô” (Gl 3,26). Thánh nhân cũng đề cập đến vai trò của Chúa Thánh Thần trong việc làm cho các môn đệ của Đức Giêsu trở thành con cái của Thiên Chúa: “Phàm ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn, đều là con cái Thiên Chúa” (Rm 8,14) hay “chính Thần Khí chứng thực cho thần trí chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa” (Rm 8,16). Những trích đoạn này giúp chúng ta nhận thức rằng Thiên Chúa luôn yêu thương toàn thể mọi người. Vấn đề còn lại là sự đáp trả của mỗi người đối với tình yêu của Thiên Chúa. Sự hiện diện của Đức Giêsu là để “quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối” (Ga 11,52). Như vậy, khi so sánh mạc khải Thiên Chúa trong Cựu Ước và Tân Ước, chúng ta biết rằng mạc khải con người là ‘con Thiên Chúa', ‘em Đức Giêsu Kitô', ‘bạn Đức Giêsu Kitô' của Tân Ước trổi vượt hơn mạc khải ‘con người là hình ảnh của Thiên Chúa' trong Cựu Ước.[15]
Bữa Tiệc Ly của Đức Giêsu và các môn đệ Người chính là bữa ăn gia đình xét trên bình diện tự nhiên cũng như siêu nhiên. Trên bình diện tự nhiên, đây cũng tương tự như bao bữa ăn khác trong các gia đình. Trên bình diện siêu nhiên, đây là bữa ăn trước khi Đức Giêsu bước vào cuộc khổ nạn, bữa ăn này không chỉ ‘ăn để nuôi sống thể xác' mà còn ‘ăn để nuôi sống tâm hồn'. Hơn nữa, Đức Giêsu nhắc nhở các môn đệ: ‘Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy'. Đây chính là bữa ăn tưởng nhớ Biến Cố Đức Kitô, bữa ăn quá khứ, bữa ăn hiện tại, bữa ăn tương lai, bữa ăn cánh chung. Đức Giêsu nói với các môn đệ Người rằng trong khi họ ăn nhiều thứ trong cuộc sống, họ cần ‘ăn chính Người' để được sống đời đời.[16] Bữa ăn này nối kết trời với đất, nối kết tất cả mọi người với nhau trong quá khứ, hiện tại và tương lai, đồng thời, định dạng căn tính, đời sống và sứ mệnh của những người ăn trên bình diện cá nhân cũng như tập thể. Bữa ăn này diễn tả sứ mệnh của Đức Giêsu Kitô là “tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10).
Tác giả thư gửi tín hữu Do-thái diễn tả Đức Giêsu Kitô là ‘con đầu của nhà Thiên Chúa' (Dt 3,6). Ở nơi khác, Đức Giêsu Kitô được giới thiệu là ‘tư tế cao trọng đứng đầu nhà Thiên Chúa' (Dt 10,21). Thánh Phao-lô viết về tương quan giữa Đức Giêsu Kitô và các tín hữu: “Những ai Người đã biết từ trước, thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Người, để Con của Người làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc” (Rm 8,29). Thánh nhân còn diễn tả cách rõ ràng hơn về Gia Đình Giáo Hội, cộng đoàn được Đức Giêsu Kitô thiết lập: “Người cũng là đầu của thân thể, nghĩa là đầu của Hội Thánh; Người là khởi nguyên, là trưởng tử trong số những người từ cõi chết sống lại, để trong mọi sự Người đứng hàng đầu” (Cl 1,18). Trong bất cứ hoàn cảnh nào, Đức Giêsu cũng là người của gia đình, Gia Đình Thiên Chúa vĩnh cửu và Gia Đình Thiên Chúa trong lịch sử nhân loại là chính Giáo Hội để qua Giáo Hội, Người tiếp tục chương trình cứu độ của Thiên Chúa cho đến tận thế.
Như đã được đề cập ở trên, Kinh Thánh Cựu Ước cho chúng ta biết các giao ước giữa Thiên Chúa và nhân loại dễ bị tổn thương do sự bất tín của nhân loại. Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa thiết lập giao ước vĩnh cửu giữa Thiên Chúa và nhân loại nhờ Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm người. Thông thường, các giao ước trong xã hội nhân loại được thiết lập giữa các bên tương đương về phẩm giá, quyền lợi và trách nhiệm. Các giao ước giữa Thiên Chúa và nhân loại được diễn tả trong Kinh Thánh không theo thể thức đó, nhưng là do Thiên Chúa khởi xướng với tư cách và phẩm vị trổi vượt ngàn trùng. Điều đáng để chúng ta quan tâm là các giao ước giữa Thiên Chúa và nhân loại luôn diễn ra trong bối cảnh gia đình.
Các giao ước này gắn liền với Lời của Thiên Chúa: Lời sáng tạo, Lời sự sống, Lời phục hồi, Lời hy vọng, Lời cứu chuộc, Lời thánh hóa. Thiên Chúa tạo dựng muôn loài bằng Lời của Người, Thiên Chúa đối thoại với nhân loại bằng Lời của Người và Thiên Chúa cứu chuộc nhân loại cũng bằng chính Lời của Người, Lời Nhập Thể. Ở đây, chúng ta để ý đến ‘năm Lời' quan trọng trong Kinh Thánh, cả năm Lời đều thực hiện qua gia đình. Lời thứ nhất liên quan đến việc khởi đầu gia đình nhân loại: “Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta” (St 1,26). Lời thứ hai liên quan đến gia đình Nô-ê: “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất” (St 9,1). Lời thứ ba liên quan đến gia đình Áp-ra-ham: “Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi” (St 12,1). Lời thứ tư liên quan đến gia đình Đức Giêsu, được ngôn sứ I-sai-a tiên báo: “Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là ‘Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta'» (Mt 1,23; Is 7,14).[17] Lời thứ năm là chính Lời của Đức Giêsu liên quan đến Gia Đình thiêng liêng, gia đình mở rộng của Người: “Thưa Bà, đây là con của Bà” (Ga 19,26).
Lời thứ năm được hiểu là Lời thiết lập Gia Đình Giáo Hội, để qua Giáo Hội, Gia Đình Thiên Chúa tiếp tục hiện diện và hoạt động giữa trần gian nhằm phục hồi căn tính và phẩm giá gia đình nhân loại bị biến dạng và hư hoại bởi tội Nguyên Tổ và hệ lụy của tội này. Lời thứ năm được Đức Giêsu thốt ra trong bối cảnh dưới chân thập giá khi Người trao phó Đức Maria cho thánh Gioan và thánh Gioan cho Đức Maria, để từ đây gia đình Đức Giêsu cũng chính là gia đình của Đức Maria và thánh Gioan cùng tất cả những ai nhận là môn đệ của Đức Giêsu qua muôn thế hệ. Sau lời trăng trối này, Đức Giêsu lịch sử thuộc gia đình Na-da-rét hoàn thành sứ mệnh của mình và nói: “Thế là đã hoàn tất! Rồi Người gục đầu xuống và trao Thần Khí” (Ga 19,30). Từ đây, Chúa Thánh Thần tiếp tục công việc của Đức Giêsu qua Giáo Hội mà Đức Giêsu thiết lập. Chúa Thánh Thần trở thành ‘linh hồn' của gia đình này và làm cho gia đình này luôn sống động giữa lòng thế giới.
Trong Tin Mừng Đức Giêsu Kitô theo thánh Matthêu, việc thiết lập Giáo Hội như là gia đình còn được hiểu qua sự kiện Đức Giêsu hỏi các môn đệ: “Người ta nói Con Người là ai?”. Thánh Phêrô được Thiên Chúa linh ứng và trả lời: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Đây chính là lời tuyên xưng về gia đình Đức Giêsu. Thánh Phêrô biết rõ Đức Giêsu thuộc gia đình Na-da-rét, Người là con Đức Maria và thánh Giuse. Tuy nhiên, thánh Phêrô nhận được linh ứng quan trọng rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, ‘Con Thiên Chúa' và thuộc về Gia Đình Thiên Chúa. Đó là lý do giải thích tại sao sau lời tuyên xưng của thánh Phêrô, Đức Giêsu nói: “Này anh Si-môn con ông Giô-na, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mạc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” (Mt 16,17-18). Như thế, Đức Giêsu thiết lập Giáo Hội trên nền tảng thánh Phêrô, nền tảng thể hiện qua lời tuyên xưng của thánh Phêrô rằng Đức Giêsu chính là Đấng Kitô, Đấng được Thiên Chúa xức dầu, Đấng là Con Thiên Chúa đến mạc khải cho nhân loại về Gia Đình Thiên Chúa, đồng thời, là Đấng thiết lập Gia Đình Thiên Chúa ở trần gian này.
Chúng ta cũng nhận thức rằng hình ảnh Giáo Hội như là gia đình không phải là hình ảnh mới mẻ, mà là hình ảnh bén rễ sâu trong lịch sử cứu độ của Thiên Chúa. Theo Công Đồng Vatican II, “trong Cựu Ước, việc mạc khải Nước Thiên Chúa thường được trình bày bằng hình bóng; cũng thế, ngày nay bản tính thâm sâu của Giáo Hội được diễn tả bằng nhiều hình ảnh lấy từ đời sống du mục, canh nông, kiến trúc, hoặc gia đình và hôn lễ.”[18] Đồng thời, Công Đồng cũng chỉ ra: “Giáo Hội cũng thường được gọi là tòa nhà của Thiên Chúa (1 Cr 3,9). Chúa Kitô đã tự ví Người như viên đá mà các thợ xây loại bỏ, nhưng đã trở thành viên đá góc (Mt 21,42). Trên nền móng này, các Tông Đồ đã xây dựng Giáo Hội (1 Cr 3,11) và Giáo Hội được bền vững, liên kết nhờ nền móng đó. Tòa nhà này còn được gọi bằng nhiều tên khác: Nhà Thiên Chúa (1 Tm 3,15), nơi Gia Đình Người cư ngụ.”[19] Việc đào sâu và diễn tả Giáo Hội như là Nhà Thiên Chúa hay Gia Đình Thiên Chúa được các Giáo Phụ cũng như truyền thống Giáo Hội quan tâm qua dòng thế kỷ.[20]
Hình ảnh Giáo Hội như là gia đình được quảng diễn cách mạnh mẽ trong 4 thế kỷ đầu của Kitô Giáo, đặc biệt, trong những thập niên đầu khi Giáo Hội vừa khai sinh. Dần dần, Giáo Hội được ‘xã hội hóa' hay ‘luật hóa' và trở thành tổ chức quy củ như các tổ chức khác giữa lòng nhân loại để có thể diễn tả căn tính, đời sống và sứ mệnh đích thực của mình.[21] Tuy nhiên, chúng ta biết rằng những yếu tố bên ngoài của Giáo Hội, hay nói cách khác, chiều kích hữu hình của Giáo Hội như là một ‘xã hội có phẩm trật' không thể che khuất tính gia đình của Giáo Hội. Những yếu tố xã hội hay những yếu tố bên ngoài phát sinh trong sự tiến triển của Giáo Hội nhằm làm cho Giáo Hội có thể phục vụ nhân loại cách xứng hợp hơn. Giáo Hội có được kinh nghiệm rằng khi Giáo Hội dựa vào cấu trúc và coi cấu trúc là căn bản, Giáo Hội gặp muôn vàn khó khăn. Chúng ta tiếp tục khai triển thêm để trả lời cho câu hỏi: ‘Đâu là nền tảng của Gia Đình Giáo Hội?'.
Ngày 28 tháng 1 năm 1979, trong bài giảng tại Đại Chủng Viện Palafox, Puebla de Los Angeles (Mexico), thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II nói rằng trong mầu nhiệm sâu thẳm nhất, Thiên Chúa không phải là Đấng cô độc, nhưng là Gia Đình. Đồng thời, ngài cũng nhấn mạnh rằng căn tính Gia Đình Thiên Chúa là tình yêu. Giáo lý Chúa Ba Ngôi của Kitô Giáo cho chúng ta nhận thức rằng trong Gia Đình Thiên Chúa, không Ngôi nào hơn, không Ngôi nào kém: Ba Ngôi cùng một bản tính, phẩm giá, phân biệt về Ngôi Vị, đồng thời, Ba Ngôi luôn hiệp thông, luôn mở ra và luôn trao ban tình yêu vô tận. Chúa Cha chỉ có thể là mình đúng nghĩa trong sự hiệp thông với Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Chúa Con chỉ có thể là mình đúng nghĩa trong sự hiệp thông với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Tương tự như thế, Chúa Thánh Thần chỉ có thể là mình đúng nghĩa trong sự hiệp thông với Chúa Cha và Chúa Con. Gia Đình Chúa Ba Ngôi là khởi nguyên của gia đình thế giới thụ tạo, tuy nhiên, gia đình thế giới thụ tạo bị biến dạng và bất hòa hợp do sự bất tuân và lạm dụng tự do của con người. Niềm hy vọng của toàn thể nhân loại cũng như thế giới thụ tạo đạt đỉnh điểm trong Biến Cố Đức Kitô, Biến Cố bởi đó Gia Đình Chúa Ba Ngôi hiện diện và tiếp tục trong Giáo Hội.
Tại hội nghị đặc biệt năm 1994, các Giám Mục Châu Phi nói rằng Gia Đình Giáo Hội có nguồn gốc từ Chúa Ba Ngôi và Chúa Thánh Thần là mối dây hiệp thông trong Giáo Hội. Vì Giáo Hội như là gia đình, Chúa Cha đã đi bước trước trong việc tạo dựng A-đam. Vì Giáo Hội như là gia đình, Đức Kitô, A-đam Mới và Người Thừa Kế các dân tộc, thiết lập Giáo Hội bởi Mình và Máu Người. Vì Giáo Hội như là gia đình biểu lộ giữa lòng thế giới, Chúa Thánh Thần được Chúa Con gửi tới từ Chúa Cha để tất cả được thông hiệp với nhau.[22] Những ý tưởng của các Giám Mục Châu Phi gợi lên trong chúng ta căn tính, đời sống và vai trò của Giáo Hội trong việc diễn tả kinh nghiệm của mình về Gia Đình Chúa Ba Ngôi cho toàn thể nhân loại. [23]
Là hình ảnh của Gia Đình Chúa Ba Ngôi, Gia Đình Thiên Chúa, Giáo Hội giúp mọi người nhận thức rằng tương quan của tất cả mọi người trong nhân loại với Thiên Chúa không phải là tương quan được diễn tả bằng ngôn ngữ triết lý, trừu tượng, chẳng hạn, tương quan giữa con người với Đấng Tuyệt Đối, Đấng Tối Cao, Đấng Toàn Năng, nhưng là tương quan giữa con cái với Cha mình. Mạc khải Thiên Chúa là Cha đối với Dân Do-thái trong Cựu Ước và Thiên Chúa là Cha của Đức Giêsu Kitô và là Cha của tất cả mọi người trong Tân Ước là trọng tâm của nội dung đức tin Kitô Giáo mà Giáo Hội diễn tả, sống và loan truyền. Hành trình của Gia Đình Giáo Hội cũng chính là hành trình của Gia Đình Thiên Chúa đối với Dân Mới, Dân được Đức Giêsu Kitô cứu chuộc bằng chính Máu châu báu của mình.
Sự duy nhất và đa dạng của Chúa Ba Ngôi chính là nguồn gốc và khuôn mẫu cho sự duy nhất và đa dạng của Giáo Hội. Hiển nhiên, sự duy nhất và đa dạng của Chúa Ba Ngôi là sự duy nhất và đa dạng hoàn hảo, còn sự duy nhất và đa dạng của Giáo Hội là sự duy nhất và đa dạng được định hướng về sự hoàn hảo trong Chúa Ba Ngôi. Bao lâu, Giáo Hội còn trên đường lữ hành trần thế, bấy lâu Giáo Hội cần đến sự nâng đỡ của Chúa Ba Ngôi trong việc duy trì cách hòa hợp giữa tính duy nhất và đa dạng để Giáo Hội có thể thánh hóa nhân loại cũng như các thực thể trong thế giới thụ tạo.
Về mặt thực hành, Giáo Hội luôn ý thức rằng trong trường hợp có sự xung khắc giữa ‘duy nhất' và ‘đa dạng' thì ưu tiên hướng về duy nhất. Chẳng hạn, sự duy nhất về giáo lý phải là ưu tiên so với sự đa dạng trong cách hiểu giáo lý đó, bằng không, tính công giáo (catholicity) và tính toàn thể (universality) của giáo lý Giáo Hội Công Giáo sẽ bị phương hại. Đó cũng là lý do giúp chúng ta hiểu tại sao trong Kinh Tin Kính không có câu ‘Giáo Hội đa dạng'. Mặc dù không đề cập đến tính đa dạng trong Kinh Tin Kính, ai cũng nhận thức và kinh nghiệm thực trạng này của Giáo Hội. Giáo Hội luôn duy nhất trong đa dạng, do đó, vấn đề đặt ra không phải là Giáo Hội hoặc là duy nhất hoặc là đa dạng.
Giáo Hội diễn tả chính mình là Ít-ra-en Mới, là Dân Mới của Thiên Chúa. Ít-ra-en hay Dân Thiên Chúa cũ được thiết lập trên nền tảng đức tin của gia đình Áp-ra-ham với hậu duệ là mười hai chi tộc và toàn bộ con cái huyết tộc Ít-ra-en. Giáo Hội, Dân Thiên Chúa mới, được thiết lập trên nền tảng Đức Giêsu với hậu duệ là mười hai tông đồ và tất cả những ai đón nhận Đức Giêsu và thực thi giáo huấn của Người. Dân của Gia Đình Giáo Hội, Dân Thiên Chúa là tất cả những ai được sinh lại bởi bí tích Rửa Tội nhân danh Chúa Ba Ngôi.[24] Dân này cùng tuyên xưng: “Chỉ có một thân thể, một Thần Khí, cũng như anh em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hy vọng. Chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người” (Ep 4,4-6).[25]
Như đã được đề cập ở trên, trong sứ mệnh của mình, Đức Giêsu bày tỏ cho các môn đệ rằng họ không chỉ là con cái của những gia đình đơn lẻ ở trần gian, mà còn là con cái của cùng một Cha ở trên trời. Điều này được Đức Giêsu minh chứng và thực hiện trong hành trình rao giảng của Người. Các môn đệ sống với gia đình mới của Đức Giêsu như là những anh em trong một nhà. Họ cũng nhận thức sự khác biệt giữa họ và Đức Giêsu so với những phe nhóm, tổ chức hay các hội đoàn đương thời. Họ được Đức Giêsu mạc khải: Người là Thầy, là Chúa, là Bạn Hữu của họ (Ga 13,13; Ga 15,15). Những lời trăng trối của Đức Giêsu trước khi bước vào cuộc khổ nạn biểu lộ tình yêu tận cùng của Người đối với họ hơn cả tình yêu của người trong gia đình đối với thân quyến trước khi đi xa.
Đức Giêsu đi vào lịch sử để con người làm quen với Thiên Chúa và Người thiết lập Gia Đình Giáo Hội để con người làm quen với Gia Đình Thiên Chúa. Hoa trái của Biến Cố Đức Kitô là chính Giáo Hội, gia đình được tái tạo. Trong nhãn quan của thánh Phao-lô, Đức Giêsu thiết lập Gia Đình Giáo Hội để đón nhận mạc khải, sống mạc khải và chuyển tải mạc khải đến với tất cả mọi người. Giáo Hội tiếp tục sự hiện diện của Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa ở trần gian. Giáo Hội minh chứng rằng Con Thiên Chúa sinh ra từ gia đình, sống trong bầu khí gia đình, chết trong bầu khí gia đình, Phục Sinh trong bầu khí gia đình và thiết lập Giáo Hội như là gia đình để tiếp tục công trình cứu độ của Người. Như thế, ‘dấu ấn gia đình' không khi nào vắng bóng hay đứt quãng trong Biến Cố Đức Kitô giữa lòng nhân loại từ Nhập Thể tới Phục Sinh. Gia đình Thiên Chúa tiếp tục hiện diện và hoạt động giữa lòng nhân thế trong Gia Đình Giáo Hội.[26]
Gia Đình Giáo Hội vừa đề cao tương quan cá nhân, vừa đề cao tương quan cộng đoàn. Trên bình diện cá nhân, các tín hữu được mời gọi đi vào sự hiệp thông thân tình với Thiên Chúa. Mối tương quan giữa họ với Thiên Chúa là mối tương quan liên vị. Trên bình diện cộng đoàn, gia đình Đức Giêsu thiết lập đòi hỏi mọi người chung tay xây dựng đời sống cộng đoàn. Các thành phần trong cộng đoàn được liên kết với nhau chặt chẽ hơn các thành phần trong các tổ chức hay hội đoàn khác. Các thành phần trong cộng đoàn làm nên Thân Thể Mầu Nhiệm Đức Kitô mà mỗi người là chi thể. Các chi thể cần cho nhau như các bộ phận trong một thân thể cần cho nhau vậy. Trong thân thể này, Đức Giêsu vừa là đầu, vừa là toàn thể. Điều này được thánh Phao-lô diễn tả mạch lạc: “Người cũng là đầu của thân thể, nghĩa là đầu của Hội Thánh” (Cl 1,18) và “Cũng như trong một thân thể, chúng ta có nhiều bộ phận, mà các bộ phận không có cùng một chức năng, thì chúng ta cũng vậy: tuy nhiều nhưng chỉ là một thân thể trong Đức Kitô, mỗi người liên đới với những người khác như những bộ phận của một thân thể” (Rm 12,4-5). Chính Đức Giêsu Kitô trao ban, nuôi dưỡng và làm tăng trưởng sự sống của các thành phần trong thân thể Người.
Ngôn ngữ Giáo Hội là ngôn ngữ gia đình. Do đó, nói rằng ‘chúng ta là con cái trong Gia Đình Giáo Hội' xem ra phù hợp với kinh nghiệm của chúng ta hơn nói rằng ‘chúng ta là những người trong cộng đoàn Giáo Hội'. Nói rằng ‘chúng ta là con cái Thiên Chúa' xem ra phù hợp với kinh nghiệm chúng ta hơn nói rằng ‘chúng ta được Thiên Chúa tạo dựng'. Nói rằng ‘chúng ta là em của Đức Giêsu ' xem ra phù hợp hơn nói rằng ‘Đức Giêsu là Vua chúng ta'. Tương tự như thế, nói rằng ‘toàn thể gia đình thế giới thụ tạo ngóng trông sự hòa nhập trong Gia Đình Thiên Chúa' xem ra phù hợp hơn nói rằng ‘vũ trụ sẽ được biến đổi trọn vẹn bởi Thiên Chúa trong thời cánh chung'.
Mầu nhiệm gia đình Na-da-rét cũng chính là mầu nhiệm của Gia Đình Giáo Hội. Điều này có nghĩa là những khó khăn, trăn trở của những người trong gia đình Na-da-rét cách đây hơn hai ngàn năm cũng chính là những khó khăn, trăn trở của con cái Giáo Hội trong thế giới hôm nay, có khác chăng cũng chỉ là hình thức và mức độ. Như thế, bao lâu Giáo Hội còn trên đường lữ hành, bấy lâu Giáo Hội còn đương đầu với nhiều gian truân, bất cập, thách đố. Quãng đường từ làng quê Na-da-rét tới kinh thành Giê-ru-sa-lem không xa xôi lắm, tuy nhiên, hành trình của Đức Giêsu lên Giê-ru-sa-lem là hành trình khó khăn, đau khổ: Hành trình đúc kết lịch sử mỗi cá nhân, lịch sử Giáo Hội của Người, lịch sử nhân loại, lịch sử vũ trụ từ đau khổ tới vinh quang trong Nước Thiên Chúa viên mãn.
Gia Đình Giáo Hội chính là Nước Thiên Chúa ở trần gian, Nước gắn liền với Biến Cố Đức Kitô và tiếp tục hiện diện giữa lòng nhân loại. Nước Thiên Chúa không thể hiện bằng trương độ nhưng bằng những giá trị vĩnh cửu. Đức Giêsu nói rằng người ta không thể chỉ Nước Thiên Chúa ở đây hay ở kia, nhưng những ai đón nhận Người và sống theo giáo huấn của Người thì trở thành công dân của Nước này. Khi những người Pha-ri-sêu hỏi Đức Giêsu bao giờ Nước Thiên Chúa đến thì Người trả lời: “Nước Thiên Chúa không đến như một điều có thể quan sát được. Và người ta sẽ không nói: ‘Ở đây này!' hay ‘Ở kia kìa!', vì này Nước Thiên Chúa đang ở giữa các ông” (Lc 17,19-21). Nước Thiên Chúa ở giữa nhân loại, nhưng câu hỏi đặt ra: ‘Có chăng toàn thể mọi người trong nhân loại ở trong Nước Thiên Chúa?' Đây là câu hỏi lớn cho Giáo Hội cũng như con cái Giáo Hội.
Như là Gia Đình Thiên Chúa hay Nước Thiên Chúa ở trần gian, Giáo Hội luôn là thực thể năng động và tiến triển giữa những mưu mô ác độc của ma quỷ và thế lực sự dữ. Ý thức mình là dấu chỉ và khí cụ của Nước Thiên Chúa, Giáo Hội không bao giờ dừng lại để ‘chiêm ngắm mình' nhưng là chiêm ngắm Nước Thiên Chúa. Bao lâu Giáo Hội trên đường lữ hành cùng với các thực thể khác trong thế giới thụ tạo, bấy lâu Giáo Hội không đánh mất ý thức sự cần thiết của ơn lành từ Thiên Chúa. Do đó, Giáo Hội không ngừng dạy bảo con cái mình luôn tin tưởng cậy trông vào Thiên Chúa. Giáo Hội không ngừng giúp con cái mình biết hướng về phía trước, biết nhìn xa trông rộng hơn những gì hiện tại và biết mở rộng cửa lòng cho sự hiện diện và hoạt động của Thiên Chúa.
Giáo Hội vừa như là Gia Đình Thiên Chúa giữa thế gian, vừa là Mẹ và là Hiền Thê của Đức Kitô. Do đó, Giáo Hội hoàn toàn lệ thuộc vào Đức Kitô. Ánh mắt, con tim và toàn bộ cuộc sống của Giáo Hội dõi theo Đức Kitô để nhờ Đức Kitô hướng dẫn, Giáo Hội có đủ năng lực để tồn tại và phát triển bền vững giữa thế gian. Gia sản của Giáo Hội thuộc Gia Đình Thiên Chúa, do đó, Giáo Hội không thể tầm thường hóa mình trong những gì thuộc về thế gian. Điều này được Đức Giêsu tỏ bày cách thân thương và sâu nhiệm cùng Chúa Cha trong những giây phút cuối cùng trước khi bước vào cuộc khổ nạn (Ga 17,12-19). Trên đường lữ hành, Giáo Hội diễn tả căn tính, đời sống và sứ mệnh của Giáo Hội cho tất cả mọi người trong khi vẫn luôn thi hành đầy đủ bổn phận đối với con cái mình.
Giáo Hội được mời gọi để thông ban sự sống, phục vụ sự sống và mở ra cho sự sống.[27] Như đã được đề cập ở trên, Gia Đình Giáo Hội được hình thành với Biến Cố Thập Giá khi người lính lấy lưỡi đòng đâm thâu cạnh sườn Đức Giêsu, máu và nước chảy ra trước sự chứng kiến của Đức Maria và người môn đệ Chúa yêu. Hình ảnh nước và máu là hình ảnh của bí tích Rửa Tội và bí tích Thánh Thể, trong đó, bí tích Rửa Tội là bí tích nhờ đó người lãnh nhận trở thành con cái trong Gia Đình Giáo Hội, còn bí tích Thánh Thể là bí tích nhờ đó con cái Gia Đình Giáo Hội được nuôi dưỡng bằng chính Mình và Máu Đức Giêsu Kitô. Cả hai bí tích này diễn tả tình yêu của Thiên Chúa đối với con người, tình yêu Thiên Chúa tha thứ tội lỗi và tình yêu nuôi dưỡng con người bằng của ăn thiêng liêng.[28]
Kinh Thánh Tân Ước đề cập đến việc cần thiết của bí tích Rửa Tội để trở thành con cái trong Gia Đình Giáo Hội. Thánh Matthêu trình bày lời của Đức Giêsu căn dặn các môn đệ mình sau khi Phục Sinh: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28,19). Còn thánh Gioan trình thuật về việc thánh Gioan Tẩy Giả thực hành Phép Rửa kêu gọi sự ăn năn thống hối (Ga 1,24-28; Ga 3,22-23; Ga 10,40-41). Thánh Gioan Tẩy Giả cũng đề cập đến việc Đức Giêsu làm Phép Rửa trong Thánh Thần (Ga 1,33). Đặc biệt, trong cuộc đối thoại với Ni-cô-đê-mô, Đức Giêsu khẳng định việc ‘sinh ra một lần nữa bởi ơn trên', ‘sinh ra bởi nước và Thần Khí' (Ga 3,2-8).
Trong sứ mệnh của mình, ngay từ buổi sơ khai, các Tông Đồ Đức Giêsu đã thực hành việc thông ban sự sống thần linh cho những người gia nhập Gia Đình Giáo Hội qua việc cử hành bí tích Rửa Tội. Thánh Phêrô viết cho các tín hữu sơ khai về hình ảnh gia đình ông Nô-ê được cứu thoát khỏi nước lũ: “Nước đó là hình bóng phép rửa nay cứu thoát anh em. Lãnh nhận phép rửa, không phải là được tẩy sạch vết nhơ thể xác, mà là cam kết với Thiên Chúa sẽ giữ lương tâm trong trắng, nhờ sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô” (1 Pr 3,21). Chúng ta gặp nhiều trình thuật về việc các môn đệ Đức Giêsu cử hành bí tích Rửa Tội (Cv 3,28; Cv 8,12; 1 Cr 12,13; Tt 3,5). Như thế, ngay từ buổi đầu, Giáo Hội đã ý thức về sự cần thiết của bí tích Rửa Tội trong việc thông ban sự sống cho con cái mình. Giáo Hội ý thức rằng nhờ bí tích Rửa Tội, người lãnh nhận được tháp nhập vào Gia Đình Giáo Hội. Họ trở thành thành phần của Giáo Hội và góp phần mình cho sự tăng trưởng của Giáo Hội về mọi mặt.
Việc cử hành bí tích này đặt nền tảng trên sự nhận thức rằng mỗi người sinh ra ở trần gian này đều mang tội lỗi của gia đình đầu tiên, gia đình A-đam và E-và. Để gia nhập gia đình mới, Gia Đình Giáo Hội, Gia Đình Thiên Chúa, họ phải được tẩy rửa tội lỗi để trở nên những thụ tạo mới. Giáo Hội cho con cái mình biết rằng mỗi người sinh ra trong trần gian này là hồng ân cao quý, tuy nhiên, được tái sinh trong Gia Đình Giáo Hội lại là hồng ân cao quý hơn. Người lãnh nhận bí tích Rửa Tội thuộc về Gia Đình Thiên Chúa ở trần gian là chính Giáo Hội, trong khi vẫn thuộc gia đình huyết thống của mình. Nhờ bí tích Rửa Tội, cuộc sống của họ được sung mãn hơn vì được thông phần ân sủng dồi dào của Thiên Chúa qua Gia Đình Giáo Hội.
Là thành phần trong gia đình của Dân Thiên Chúa mới, những người lãnh nhận bí tích Rửa Tội được hiệp thông với Thiên Chúa và hiệp thông với anh chị em mình. Đồng thời, họ được trở nên thành phần trong Nhiệm Thể Đức Kitô và Đền Thờ Chúa Thánh Thần. Họ cùng nhau tham dự các buổi cầu nguyện, cử hành phụng vụ để diễn tả căn tính và đời sống mình. Đặc biệt, họ cùng nhau cử hành các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể để lãnh nhận của ăn thiêng liêng nuôi sống họ trên đường lữ hành. Ở đâu bí tích Thánh Thể được cử hành, ở đó có Gia Đình Giáo Hội, ở đâu có Gia Đình Giáo Hội, ở đó có Gia Đình Thiên Chúa. Như thế, Gia Đình Giáo Hội, Gia Đình Thiên Chúa không còn lệ thuộc vào điều kiện địa lý hay xã hội, nhưng hiện diện bất cứ nơi đâu bí tích Thánh Thể được cử hành.
Các Tin Mừng Nhất Lãm đều trình bày việc Đức Giêsu lập bí tích Thánh Thể trong bối cảnh gia đình, trước khi Người bước vào cuộc khổ nạn (Mt 26,25-29; Mc 14,22-25; Lc 22,19-20). Thánh Phao-lô cũng tường thuật cách cặn kẽ việc Đức Giêsu thiết lập bí tích này (1 Cr 11,23-25). Thánh Gioan không trình bày việc Đức Giêsu thiết lập bí tích Thánh Thể như các tác giả Tin Mừng Nhất Lãm. Theo ý kiến của một số nhà chú giải Kinh Thánh, thánh Gioan viết Tin Mừng vào những năm cuối thế kỷ thứ nhất, sau khi đã có các bản văn của Tin Mừng Nhất Lãm, ưu tiên của thánh Gioan là những điều mới mẻ khởi đi từ suy tư và kinh nghiệm của mình, người môn đệ Chúa yêu. Vào thời điểm thánh nhân viết Tin Mừng, các tín hữu đã làm quen với việc cử hành bí tích Thánh Thể. Điều đáng để chúng ta quan tâm về bí tích Thánh Thể theo thánh Gioan là trình thuật của thánh nhân trong ‘Diễn Từ Bánh Trường Sinh' (Ga 6,1-15.22-66). Chẳng hạn, “ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn và máu tôi thật là của uống. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy... Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời» (Ga 6,54-58). Trong diễn từ này, Đức Giêsu bày tỏ mình như là Mô-sê mới và chính Người là Man-na mới, Man-na đích thực, Man-na vĩnh cửu của Gia Đình Thiên Chúa ở trần gian. Người cũng là Đấng ‘khơi nguồn sự sống', đồng thời, là Đấng nuôi sống muôn người (Cv 3,15).
Thánh Gioan không trình thuật việc Đức Giêsu thiết lập bí tích Thánh Thể trong bữa ăn tối, bữa ăn cuối cùng giữa Đức Giêsu và các môn đệ Người như các tác giả Tin Mừng Nhất Lãm. Thay vào đó, ngài trình thuật tinh thần phục vụ lẫn nhau trong gia đình của những người theo Đức Giêsu Kitô. Chính trong bữa ăn cuối cùng này, Đức Giêsu đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. Đồng thời, Người mạc khải cho họ ‘giới răn mới' là “anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34).
Hai bài học quan trọng cho những ai thuộc gia đình Đức Giêsu Kitô và được nuôi dưỡng bởi Mình và Máu của Người là (1) khiêm nhường phục vụ anh chị em mình và (2) thương yêu anh chị em mình như chính Đức Giêsu đã yêu thương. Trong thực tế, chúng ta nhận thấy ai trong chúng ta cũng có thể thực hiện được một số cử chỉ khiêm nhường. Tuy nhiên, khiêm nhường như Đức Giêsu, Vị Thiên Chúa cúi xuống rửa chân cho môn đệ mình là điều không ai có thể tưởng tượng được. Tương tự như thế, ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm về tình yêu, nhưng yêu như Đức Giêsu yêu, yêu đến nỗi hy sinh mạng sống vì người mình yêu là điều vượt quá khả năng chúng ta. Khiêm nhường và yêu thương như Đức Giêsu luôn là khuôn mẫu tối thượng cho tất cả con cái trong Gia Đình Giáo Hội cũng như toàn thể nhân loại qua muôn thế hệ. Ai khiêm nhường như Đức Giêsu, thì cũng yêu thương như Người và ngược lại, ai yêu thương như Đức Giêsu thì cũng khiêm nhường như Người. Đối với Đức Giêsu, khiêm nhường và yêu thương trở nên một. Mục đích của việc Đức Giêsu thiết lập bí tích Thánh Thể là cho tất cả mọi người trong Gia Đình Giáo Hội không chỉ lãnh nhận những ân sủng do Người ban tặng mà còn lãnh nhận chính mình Người để ngày càng được Người biến đổi nhiều hơn.
Với bí tích Thánh Thể, tình yêu của Đức Giêsu Kitô, Đấng hôm qua, hôm nay và luôn mãi được biểu lộ.[29] Đức Giêsu ban tặng chính mình Người cho tất cả con cái Gia Đình Giáo Hội. Bí tích này lôi kéo tất cả mọi người trong Gia Đình Giáo Hội đến với Người và đến với nhau, đồng thời, nhắc nhở mọi người về lối sống gia đình phải là lối sống ưu tiên hơn các lối sống khác trong xã hội loài người. Các thành phần trong Gia Đình Giáo Hội chỉ có thể là mình khi biết ‘ra khỏi mình' để sống cho người khác theo khuôn mẫu của các Ngôi Vị Thiên Chúa. Giáo Hội xét như là một gia đình chỉ có thể là mình thực thụ khi biết trông cậy hoàn toàn vào Thiên Chúa và khi mọi người sống với nhau và cho nhau trong tình anh em.
Vương Quốc Thiên Chúa được trình bày qua hình ảnh tất cả mọi người đều chung nhau trong bữa tiệc cánh chung, bữa tiệc gia đình.[30] Như đã được đề cập ở trên, khởi thủy của bí tích Thánh Thể chính là bữa ăn cuối cùng giữa Đức Giêsu và các môn đệ của Người, trước khi Đức Giêsu bước vào cuộc khổ nạn. Chính bí tích Thánh Thể là bữa tiệc của Gia Đình Thiên Chúa ở trần gian, trong đó, mọi người được nếm thử bữa tiệc vĩnh cửu trong Nước Thiên Chúa, bởi vì, họ được nhận lấy Đức Giêsu, được liên kết với Người và anh chị em mình một cách mật thiết nhất. Đồng thời, họ cùng nhau chia sẻ niềm hy vọng vào ‘bữa tiệc vĩnh cửu' trong trời mới đất mới khi Thiên Chúa quy tụ và đổi mới muôn vật muôn loài trong Con yêu dấu của Người, Đức Giêsu Kitô.
Như thế, dấu chỉ rõ nét nhất của Giáo Hội như là gia đình được thể hiện qua việc cử hành bí tích Thánh Thể. Các thành phần trong Gia Đình Giáo Hội cùng nhau quy tụ trong tinh thần cầu nguyện, đọc Lời Chúa và suy niệm Lời Chúa. Họ hiệp thông, chia sẻ với nhau trong cùng một Bánh và một Chén, chính là Mình và Máu Đức Giêsu Kitô. Trong bí tích Thánh Thể, họ được rước lấy Đức Giêsu Kitô, cũng chính là rước lấy Gia Đình Giáo Hội trong đó mình là thành phần. Ở đây, Giao Ước Sự Sống Vĩnh Cửu được cử hành, được chia sẻ, được lãnh nhận. Hơn thế nữa, cộng đoàn cử hành bí tích Thánh Thể cũng là cộng đoàn sống hiệu quả của bí tích này cách đầy đủ nhất. Tác giả sách Công Vụ Tông Đồ viết: “Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai, của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu. Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa và được toàn dân thương mến. Và Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu độ” (Cv 2,44-47).
Giáo Hội cho con cái mình biết rằng hơn cả các thành phần trong gia đình nữa, họ là các bộ phận của cùng thân thể hay nói như thánh Phao-lô rằng các Kitô hữu ‘là phần thân thể của nhau' (Ep 4,25).[31] Do đó, bổn phận của họ là nâng đỡ nhau trong mọi hoàn cảnh. Về phần mình, Giáo Hội luôn quan tâm đến mọi người trong gia đình mình, đặc biệt những người khó khăn, thiếu thốn nhu cầu vật chất cũng như tinh thần. Theo Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đích-tô XVI, là Gia Đình Thiên Chúa ở trần gian, trong khi thi hành tác vụ diễn tả tình yêu hoàn vũ của Thiên Chúa, Giáo Hội đặc biệt quan tâm đến các thành phần con cái mình và không để bất cứ ai trong con cái mình phải túng thiếu. Để diễn tả rõ hơn điều này, Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đích-tô XVI trích dẫn thư thánh Phao-lô gửi tín hữu Ga-lát: “Bao lâu còn thời giờ, chúng ta hãy làm điều thiện cho mọi người, nhất là cho những anh em trong cùng đại gia đình đức tin” (Gl 6,10).[32] Như thế, việc cử hành bí tích Thánh Thể đi đôi với việc thực thi công lý, công bình và bác ái.
Giáo Hội vừa như là Gia Đình Thiên Chúa ở trần gian, vừa là Thầy và là Mẹ đối với toàn thể con cái mình.[33] Trong tư cách là Thầy, Giáo Hội không ngừng dạy bảo con cái mình dựa trên nội dung đức tin đã được Thiên Chúa ủy thác để suy tư, khai triển và áp dụng. Giáo Hội chỉ cho con cái mình đâu là những hiểm nguy tiềm tàng có thể phương hại đức tin chân chính của họ. Giáo Hội luôn đặt mình dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần và nhờ Chúa Thánh Thần, Giáo Hội thi hành sứ vụ của mình cách trung tín nhất. Trong tư cách là Mẹ, Giáo Hội luôn gần gũi con cái mình để nhận biết, để cảm thông, để đồng hành, để nâng đỡ con cái mình trong mọi hoàn cảnh, đặc biệt, trong những lúc con cái mình gặp khó khăn thiếu thốn. Giáo Hội, người Mẹ khôn ngoan và dồi dào kinh nghiệm biết trao ban những gì tốt đẹp nhất nhằm làm cho cuộc sống con cái mình luôn được bình an giữa những khó khăn của cuộc sống hằng ngày.
Giáo Hội là nơi con cái mình cùng chia sẻ những buồn vui và hy vọng. Giáo Hội cũng là nơi con cái mình nhận thức tầm quan trọng của bản thân và tầm quan trọng của người khác cũng như sẵn sàng nâng đỡ nhau trong cuộc sống. Giáo Hội luôn ý thức về căn tính và phẩm giá của con cái mình. Đồng thời, Giáo Hội cũng biết con cái mình là những người yếu đuối, lầm lỡ và tội lỗi cần được sửa dạy. Giáo Hội hiểu rằng những vấn đề nảy sinh liên quan đến con cái mình không chỉ được giải quyết dựa vào ngôn ngữ Giáo Luật, mà còn dựa vào ngôn ngữ Kinh Thánh, ngôn ngữ mục vụ và đặc biệt là ngôn ngữ gia đình nữa. Chúng ta có kinh nghiệm rằng ưu tiên trong hành động của cha mẹ đối với con cái là yêu thương. Do đó, khi con cái lầm lỗi, bổn phận của cha mẹ là đưa con cái trở về ‘đường ngay nẻo chính' hơn là dựa vào những luật lệ định sẵn để áp dụng cho con cái hay phó thác con cái cho pháp luật dân sự hay bất cứ hình thức pháp luật nào khác. Đây cũng là phương cách mà Thiên Chúa đã áp dụng với Dân Người trong Cựu Ước, trong đó, Thiên Chúa không phó thác Dân Người cho các thế lực bên ngoài, nhưng rộng lòng tha thứ và đón nhận Dân Người trở về quỹ đạo yêu thương của Người.
Trong khi sinh hạ con cái mình nhờ bí tích Rửa Tội, nuôi dưỡng con cái mình nhờ bí tích Thánh Thể và thánh hóa con cái mình qua các bí tích khác, Giáo Hội đồng hành với con cái mình trên mọi nẻo đường. Giáo Hội luôn ý thức rằng mình được mời gọi để không ngừng trao ban sự sống cho tất cả mọi người. Dĩ nhiên, đây không phải là sự sống tự thân, nghĩa là sự sống bởi chính Giáo Hội mà là sự sống của Thiên Chúa được trao ban cho nhân loại thông qua Giáo Hội. Trong khi thi hành các tác vụ giảng dạy, quản trị và thánh hóa, Giáo Hội đặc biệt quan tâm đến gia đình của con cái mình, bởi vì, gia đình con cái mình chính là môi trường diễn tả căn tính, đời sống và sứ mệnh của Giáo Hội cách cụ thể nhất.
Như đã được đề cập ở trên, Giáo Hội nhận thức rằng theo mạc khải Kinh Thánh khi nam nữ kết hợp với nhau, họ không chỉ nên một xương một thịt mà còn nên một gia đình.[34] Giáo Hội vừa đóng vai trò quan trọng trong việc khai sinh gia đình con cái mình nhờ bí tích Hôn Nhân, vừa phục vụ gia đình con cái mình trong suốt hành trình sống của họ. Phục vụ gia đình con cái mình luôn là ưu tiên trong đời sống Giáo Hội, bởi vì, gia đình con cái mình diễn tả tình yêu Thiên Chúa cách cụ thể trong môi trường thụ tạo.
Trong Tông Huấn Familiaris Consortio, thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II viết: “Gia đình có sứ mệnh gìn giữ, biểu lộ, thông truyền tình yêu và đây là sự phản chiếu sinh động và chia sẻ đích thực tình yêu Thiên Chúa cho nhân loại và tình yêu của Đức Kitô cho Giáo Hội, Hiền Thê của Người.”[35] Với Thông Điệp Deus Caritas Est, Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đích-tô XVI diễn tả cách khúc chiết rằng tình yêu mang nhiều hình thức khác nhau, tuy nhiên, tình yêu giữa người nam và người nữ khi hồn xác của họ liên kết với nhau bất khả phân ly trở thành mẫu hình cho các hình thức tình yêu khác.[36] Cũng trong Thông Điệp này, Đức Giáo Hoàng viết: “Hôn nhân đặt nền tảng trên tình yêu đơn nhất và dứt khoát trở thành hình ảnh của tương quan giữa Thiên Chúa và Dân Người và ngược lại. Cách thức Thiên Chúa yêu thương trở thành tiêu chuẩn cho tình yêu nhân loại.”[37]
Giáo Hội không ngừng dạy bảo con cái mình rằng, vì tình yêu, Thiên Chúa tạo dựng gia đình nhân loại. Cộng đoàn đầu tiên này là cộng đoàn thông hiệp sự sống của Thiên Chúa và được mời gọi cộng tác với Thiên Chúa trong việc trao ban sự sống, trao ban tình yêu. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II khẳng định: “Con người không thể sống mà không có tình yêu. Con người vẫn là hữu thể không hiểu được đối với chính mình, cuộc sống con người vô nghĩa, nếu con người không nhận được mạc khải tình yêu, nếu con người không gặp gỡ tình yêu, nếu con người không kinh nghiệm tình yêu và sở đắc tình yêu, nếu con người không tham dự cách mật thiết vào tình yêu.”[38] Tình yêu mà thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II nói ở đây là tình yêu Thiên Chúa, tình yêu vĩnh cửu, tình yêu sáng tạo, tình yêu mà con người vừa có thể cảm nghiệm được, vừa luôn khao khát trong hành trình trần thế của mình.
Giáo Hội, hình ảnh Chúa Ba Ngôi có hình thức cụ thể nơi gia đình con cái mình. Điều này đã được thể hiện qua giáo huấn của Giáo Hội cùng những khai triển của nhiều thần học gia. Trong Tông Huấn Giáo Hội Châu Đại Dương Ecclesia in Oceania, thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II nhấn mạnh rằng gia đình là hình ảnh sự hiệp thông khôn dò của Chúa Ba Ngôi.[39] Như đã được đề cập ở trên: Con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa không chỉ trên bình diện cá nhân, mà còn trên bình diện cộng đoàn, bình diện gia đình nữa. Gia đình mang trong mình dấu ấn của Đấng Sáng Tạo và là hình ảnh yêu thương của Thiên Chúa Ba Ngôi. Các cá nhân riêng lẻ trong gia đình không thể diễn tả mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi cách đầy đủ bằng sự kết hợp giữa họ. Cũng như Chúa Thánh Thần là Tình Yêu của Chúa Cha và Chúa Con, con cái là tình yêu của người chồng và người vợ. Chúa Thánh Thần liên kết Chúa Cha và Chúa Con, con cái liên kết người chồng và người vợ. Gia đình được xem là hình ảnh tốt nhất cho phép chúng ta tiếp cận mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, mầu nhiệm của sự duy nhất trong đa dạng trọn hảo.
Sự nên một của A-đam và E-và, sự nên một của Đức Kitô và Giáo Hội cùng với sự nên một của chồng và vợ trong gia đình liên kết chặt chẽ với nhau để trao ban sự sống, tình yêu và hy vọng. Giáo Hội ý thức rằng người nam và người nữ là những người phân biệt nhau, nhưng trong bối cảnh gia đình, họ là chồng, là vợ, họ trở nên một thân xác, cái ‘tôi' của mỗi người tìm được trong cái ‘chúng ta' của gia đình. Khi trở thành ‘chúng ta', thực thể này trổ sinh hoa trái và cùng với con cái, ‘chúng ta' của gia đình ngày càng lớn mạnh hơn. Những ‘người khác' trong gia đình phân biệt với những ‘người khác' trong các tổ chức dân sự, chính trị, xã hội. Tình liên đới, tình yêu thương của các thành phần trong gia đình phân biệt với tình liên đới, tình yêu thương của những ‘người khác' không thuộc gia đình.
Tầm quan trọng của gia đình luôn được Giáo Hội đề cao và bảo vệ. Trong Thông Điệp Centesimus Annus, thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II viết: “Thật là cần thiết để nhìn nhận gia đình như là cung thánh của sự sống. Gia đình thực sự là thánh thiêng: Đó là nơi mà sự sống - quà tặng của Thiên Chúa - có thể được đón nhận cách đúng đắn cũng như được bảo vệ khỏi những cuộc tấn công phá hủy và có thể phát triển phù hợp nhằm làm cho con người trưởng thành đích thực. Đối diện với văn hóa sự chết, gia đình là trung tâm văn hóa sự sống.”[40] Với Giáo Hội, bảo vệ sự toàn vẹn gia đình theo mạc khải Kitô giáo như là bảo vệ chính Giáo Hội vậy, bởi vì, như đã được đề cập ở trên: Căn tính, đời sống và sứ mệnh của Gia Đình Giáo Hội thể hiện nơi căn tính, đời sống và sứ mệnh của gia đình con cái mình.
Tân Ước cho chúng ta biết gia đình chính là thực tại đầu tiên, địa chỉ đầu tiên của Đấng Em-ma-nu-en, Con Thiên Chúa Nhập Thể, Đức Giêsu Kitô. Gia đình con cái Giáo Hội là địa chỉ đầu tiên đón nhận, sống và diễn tả các giá trị Tin Mừng cũng như công bố nội dung đức tin của Giáo Hội. Tác giả sách Công Vụ Tông Đồ viết: “Mỗi ngày, trong Đền Thờ và tại tư gia, các ông không ngừng giảng dạy và loan báo Tin Mừng về Đức Kitô Giêsu ” (Cv 5,42). Thánh Phao-lô giãi bày với các Kitô hữu sơ khai: “Anh em biết tôi đã không bỏ qua một điều gì có ích cho anh em; trái lại tôi đã giảng cho anh em và dạy anh em ở nơi công cộng cũng như tại chốn tư gia” (Cv 20,20) hay “tôi còn làm phép rửa cho gia đình Tê-pha-na nữa. Ngoài ra, tôi không biết có làm phép rửa cho ai khác nữa hay chăng” (1 Cr 1,16). Thánh Phao-lô còn quan tâm đến từng cá nhân trong các gia đình, chẳng hạn, “các Hội Thánh A-xi-a gửi lời chào anh em. A-qui-la và Pơ-rít-ca cùng với Hội Thánh họp tại nhà họ gửi lời chào anh em trong Chúa” (1 Cr 16,19) hay “Phao-lô, kẻ bị tù vì Đức Kitô Giêsu, cùng với người anh em là Ti-mô-thê, gửi anh Phi-lê-môn, cộng sự viên thân mến của chúng tôi, cùng chị Áp-phi-a và anh Ác-khíp-pô, chiến hữu của chúng tôi, đồng thời kính gửi Hội Thánh họp tại nhà anh” (Plm 1-2). Một lần nữa, chúng ta cần lặp lại: Mô hình chính yếu của Giáo Hội sơ khai là gia đình chứ không là gì khác. Mô hình gia đình này không chỉ hiện diện ở Pa-lét-tin mà còn nhiều nơi quanh vùng Địa Trung Hải.[41]
Theo Công Đồng Vatican II, “chính gia đình đã lãnh nhận từ Thiên Chúa sứ mệnh trở nên tế bào đầu tiên và sống động của xã hội. Gia đình sẽ chu toàn được sứ mệnh đó nếu gia đình tỏ ra như một đền thờ của Giáo Hội trong nhà mình nhờ yêu thương nhau và cùng nhau dâng lời cầu nguyện lên Thiên Chúa.”[42] Trong Tông Huấn Ecclesia in Asia, thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II quả quyết rằng gia đình là nơi sự thật của Tin Mừng trở thành chuẩn mực cho đời sống của những người trong đó. Cũng theo Tông Huấn Ecclesia in Asia, gia đình không chỉ là đối tượng của việc truyền giáo, tái truyền giáo, chăm sóc mục vụ của Giáo Hội mà còn là nhân tố của việc truyền giáo. Những người trong gia đình được mời gọi làm chứng cho Tin Mừng giữa những khó khăn của cuộc sống.[43] Gia đình làm cho Đức Giêsu Kitô và Tin Mừng của Người được tiếp cận, được lắng nghe, được suy niệm, được thực hành trong những hoàn cảnh cụ thể.[44]
Lịch sử Giáo Hội luôn đề cao vai trò của gia đình, bởi vì, như Công Đồng Vatican II nhấn mạnh: ‘Gia đình như một Giáo Hội nhỏ', Giáo Hội tại gia (ecclesia domestica).[45] Giáo Hội và gia đình định dạng lẫn nhau. Giáo Hội hiện diện và hoạt động nơi Giáo Hội tại gia và làm cho Giáo Hội tại gia trở thành những viên đá sống động xây nên Giáo Hội như là Gia Đình Thiên Chúa. Giáo hội tại gia ý thức rằng căn tính và đời sống của mình được diễn tả đúng nghĩa chỉ khi hiệp thông với Giáo Hội như là Gia Đình Thiên Chúa. Nói cách rõ hơn, Giáo Hội tại gia không phải là thực thể độc lập, nhưng là thực thể liên đới và hiệp thông với Giáo Hội như là Gia Đình Thiên Chúa, Gia Đình Giáo Hội hoàn vũ.[46] Gần đây hơn, trong Tông huấn Amoris Laetitia, Đức Giáo hoàng Phan-xi-cô viết: “Giáo Hội là Gia đình của các gia đình, thường xuyên được làm phong phú bởi đời sống của tất cả các Giáo hội tại gia. Bởi thế, nhờ Bí tích Hôn Phối, mỗi gia đình thực sự trở thành một thiện ích cho Giáo Hội. Trong viễn ảnh này, việc xem xét mối tương tác giữa gia đình và Giáo Hội chắc chắn sẽ là một ơn ban quý giá cho Giáo Hội ngày nay: Giáo Hội là phúc lành cho gia đình, và gia đình là phúc lành cho Giáo Hội. Việc gìn giữ hồng ân bí tích của Chúa không chỉ liên hệ đến các gia đình riêng lẻ, nhưng còn đến chính cộng đoàn Kitô hữu” (số 87).
Trong bối cảnh thế giới hôm nay, giữa những bão táp phương hại đến căn tính hôn nhân gia đình, Giáo Hội khẳng định sự bất khả phân ly vợ chồng theo giáo huấn Đức Giêsu. Khi những người Pha- ri-sêu hỏi Đức Giêsu về sự ly dị, Người trả lời họ rằng vợ chồng trong giao ước hôn nhân trở nên ‘một xương một thịt (Mt 19,5) và rằng ‘sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly' (Mt 19,6). Những người Pha-ri-sêu viện cớ Mô-sê cho phép ly dị để bắt bẻ Đức Giêsu và Người trả lời: “Vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Mô-sê đã cho phép các ông rẫy vợ, chứ thuở ban đầu, không có thế đâu” (Mt 19,8). Đối với thánh Phao-lô, gia đình Kitô giáo đặt nền tảng yêu thương trên khuôn mẫu yêu thương giữa Đức Kitô và Giáo Hội. Theo thánh nhân, chồng ‘hãy yêu thương vợ, như chính Đức Kitô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh', hay ‘chồng phải yêu vợ như yêu chính thân thể mình. Yêu vợ là yêu chính mình' (Ep 5,25-32). Con cái ‘hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa'; cha mẹ ‘hãy giáo dục chúng thay mặt Chúa bằng cách khuyên răn và sửa dạy' (Ep 6,1-4).
Như thế, trong gia đình, người vợ là hình ảnh của Giáo Hội, người chồng là hình ảnh Đức Kitô. Vợ chồng cùng phẩm giá, tuy nhiên, trật tự giữa vợ và chồng vẫn luôn tồn tại, dựa trên khuôn mẫu Đức Kitô và Giáo Hội. Trong gia đình, hình ảnh của người vợ là hình ảnh của sự bao dung, nhẹ nhàng để chăm sóc con cái, còn hình ảnh người chồng là hình ảnh mạnh mẽ, quyết đoán để hướng dẫn và bảo đảm sự an toàn cho tất cả các thành phần. Ở nhiều dân tộc trên thế giới, thông thường, người vợ đảm đương những việc nhẹ nhàng ở nhà, còn người chồng đảm đương những việc nặng nhọc khác để lo cuộc sống cho các thành phần trong gia đình. Sự tương đồng về quyền và phẩm giá của người chồng và người vợ không làm phương hại tính đặc thù của người chồng và người vợ trong gia đình, nghĩa là người chồng và người vợ không nhất thiết phải có chức năng giống nhau trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Giáo Hội ý thức sự phân công lao động phù hợp giữa chồng và vợ, đồng thời, chống lại sự phân biệt đối xử bất công giữa họ.
Khi chăm sóc mục vụ, Giáo Hội ý thức về những khó khăn trong các gia đình con cái mình giữa trào lưu và những quan niệm sai lạc về hôn nhân gia đình, chẳng hạn, ly dị, tái hôn, gia đình đơn lẻ.[47] Trong thế giới hôm nay, nhiều người xem hôn nhân như là một khế ước cá nhân, họ không màng sự chứng nhận của bất cứ thẩm quyền nào. Có những người xem hôn nhân như là bản hợp đồng (contract) chứ không như là giao ước (covenant) được Thiên Chúa thiết lập và chúc phúc. Có những người xem hôn nhân như là sự biểu lộ cảm tính, khi không còn nữa thì có thể bỏ nhau bất cứ lúc nào, bởi vì, cảm tính thay đổi tùy theo lứa tuổi cũng như những bấp bênh trong đời sống cá nhân, xã hội. Lại có những người chủ trương hôn nhân một vợ một chồng xem ra chỉ đúng cho quá khứ, không đúng cho thế giới hiện đại nữa. Hôn nhân được xem như một công việc (job) toàn thời hoặc bán thời chứ không phải là ơn gọi (vocation) yêu thương, chung thủy, duy nhất và trọn đời.
Như đã được đề cập ở trên, Đức Giêsu Kitô quan tâm cách đặc biệt đến các gia đình trong sứ mệnh lịch sử của mình. Từ Biến Cố Nhập Thể đến Biến Cố Phục Sinh, tất cả những gì liên quan đến Đức Giêsu đều gắn liền với gia đình. Do đó, chăm sóc mục vụ gia đình luôn là bổn phận của Giáo Hội, bí tích của Đức Giêsu Kitô. Đây không phải là bổn phận tạm thời hay bán thời mà là bổn phận gắn liền với căn tính, đời sống và sứ mệnh của Giáo Hội. Do đó, bao lâu Giáo Hội trên đường lữ hành, bấy lâu Giáo Hội chăm sóc mục vụ gia đình cách chu đáo theo gương Đức Giêsu Kitô. Kinh Thánh Tân Ước cho chúng ta biết Đức Giêsu Kitô không đến để gặp gỡ và quy tụ những người khác như gặp gỡ và quy tụ một đám đông, nhưng là đến với họ cách mật thiết, quan tâm đến gia đình của họ, đồng thời, cho họ biết họ được mời gọi để sống những giá trị của Gia Đình Thiên Chúa ở trần gian.
Kinh nghiệm lịch sử cho Giáo Hội nhận thức rằng gia đình con cái Giáo Hội không chỉ mong muốn Giáo Hội thi hành vai trò lãnh đạo, mà cần thiết hơn là vai trò đồng hành. Có như thế, Giáo Hội thực sự là Giáo Hội lữ hành cùng với gia đình, nghĩa là những biến cố xảy ra trong đời sống gia đình đều có sự hiện diện và nâng đỡ của Giáo Hội. Những khó khăn hay thuận lợi trong gia đình cũng chính là những khó khăn hay thuận lợi của Giáo Hội. Sự cảm thông chia sẻ của Giáo Hội đối với những thách đố của gia đình giúp Giáo Hội một mặt thể hiện ‘lòng thương xót' của Chúa đối với gia đình, mặt khác, giúp Giáo Hội có được những kinh nghiệm quý báu để phục vụ gia đình cách tốt đẹp hơn.
Như đã được đề cập ở trên, Giáo Hội ý thức rằng gia đình con cái mình là hình ảnh Gia Đình Thiên Chúa. Tuy nhiên, gia đình con cái mình dễ bị tổn thương vì chính tội lỗi của các thành phần trong gia đình cũng như trong môi trường nhân loại. Giáo Hội mời gọi những người trong gia đình sống giá trị Tin Mừng giữa muôn vàn khó khăn nảy sinh từ những quan niệm lệch lạc về phái tính hay những sai lầm khác không chỉ theo nghĩa đạo đức, luân lý mà còn theo nghĩa tự nhiên, tâm lý, bệnh hoạn. Gia Đình Giáo Hội cũng như gia đình con cái mình không ngừng hướng về Gia Đình Thiên Chúa để kín múc ‘năng lượng' cần thiết cho cuộc sống hằng ngày.
Trong Thông Điệp Đấng Cứu Chuộc Con Người Redemptor Hominis (1979), thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II viết: Con người là con đường của Giáo Hội.[48] Cách tương tự, trong Thư Gửi Các Gia Đình, ngài viết: Gia đình là con đường của Giáo Hội.[49] Quả thật, con người là con đường của Giáo Hội, tuy nhiên, con người được sinh ra và trưởng thành từ gia đình. Do đó, con người phải đi con đường của gia đình và được triển nở từ con đường gia đình. Gia đình quan trọng đến mức, theo lời của thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II, gia đình chính là tương lai của Giáo Hội cũng như thế giới.[50] Bởi lẽ “chính trong gia đình, chúng ta được dần trưởng thành kinh nghiệm trong Giáo Hội về mối hiệp thông giữa các ngôi vị, nơi đó, nhờ ân sủng, phản ánh chính mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Ở đó, con người học được sự kiên nhẫn và niềm vui trong lao động, tình yêu thương huynh đệ, sự tha thứ quảng đại, thậm chí tha thứ nhiều lần, nhất là việc phụng thờ Thiên Chúa qua kinh nguyện và sự dâng hiến đời sống” (Amoris Laetitia, số 86). Do đó, gia đình là nơi lòng thương xót Chúa hiện diện và hoạt động, đồng thời, cũng là nơi quan trọng nhất, từ đó lòng thương xót Chúa được loan báo và chuyển tải. Như vậy, Giáo Hội vừa chăm sóc mục vụ gia đình con cái mình, vừa khuyến khích con cái mình biết luôn cộng tác với nhau và với toàn thể Gia Đình Giáo Hội để loan báo Tin Mừng Gia Đình Thiên Chúa cho toàn thể nhân loại.
Những khai triển và trình bày trên đây cho phép chúng ta hiểu thêm rằng hình ảnh Giáo Hội như là Gia Đình Thiên Chúa ở trần gian vừa có nền tảng Kinh Thánh, truyền thống, huấn quyền vững chắc, vừa phù hợp với kinh nghiệm của tất cả mọi người trong nhân loại. Hình ảnh này được đề cập nhiều trong những thập niên gần đây được xem như là hiệu quả tất yếu của Công Đồng Vatican II và sự khai triển của huấn quyền Giáo Hội. Hình ảnh Giáo Hội như là Gia Đình Thiên Chúa cho phép chúng ta hiểu rõ hơn bản chất của Giáo Hội và quan tâm hơn tới các tương quan trong đời sống Giáo Hội trên bình diện thần học cũng như mục vụ. Đây cũng là hình ảnh giúp Giáo Hội ý thức hơn về vai trò của Giáo Hội giữa lòng thế giới là liên đới và đồng hành với tất cả mọi người trong gia đình nhân loại để xây dựng một thế giới nhân bản hơn.
Hình ảnh Giáo Hội như là Gia Đình Thiên Chúa không tương phản hay đối nghịch với bất cứ hình ảnh Giáo Hội nào từ nội dung đức tin của Giáo Hội cũng như sự đón nhận, sống và diễn tả nội dung đức tin đó theo dòng lịch sử Giáo Hội. Xem ra hình ảnh Giáo Hội như là Gia Đình Thiên Chúa tích hợp được nhiều yếu tố từ các hình ảnh Giáo Hội khác, chẳng hạn, đoàn chiên, những viên đá sống động, tòa nhà, hiền thê, người mẹ, thụ tạo mới, hiệp nhất giữa những người Do-thái và dân ngoại. Đặc biệt, hình ảnh này liên kết chặt chẽ với bốn hình ảnh được Công Đồng Vatican II nhấn mạnh: Vương Quốc Thiên Chúa ở trần gian, Dân Thiên Chúa, Thân Thể Đức Kitô và Đền Thờ Chúa Thánh Thần.[51]
Trong Tông Huấn Ecclesia in Africa, thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II cho rằng Giáo Hội như là Gia Đình Thiên Chúa được xem là việc diễn tả đúng đắn căn tính của Giáo Hội, đặc biệt là bối cảnh Giáo Hội Châu Phi. Theo thánh Giáo Hoàng, việc loan báo Tin Mừng nhằm mục đích xây dựng Giáo Hội như là Gia Đình Thiên Chúa là cách tốt nhất để trả lời cho những chủ trương sai lạc về chủng tộc cũng như chủ nghĩa vị chủng ‘ethnocentrism' khá thịnh hành ở đại lục này. Đồng thời, việc hiểu Giáo Hội như là Gia Đình Thiên Chúa sẽ là câu trả lời đúng đắn nhất cho những ai chủ trương chủ nghĩa đặc thù ‘particularism' nhằm đề cao các đặc tính văn hóa địa phương trong việc diễn tả đức tin của Giáo Hội hơn là tính chất hoàn vũ của đức tin này. Chúng ta biết rằng niềm tin của Giáo Hội không lệ thuộc vào cách diễn tả đặc thù nào, trái lại, phù hợp với tất cả các nền văn hóa trên thế giới. Do đó, bổn phận của các tín hữu trong các nền văn hóa địa phương là cần đào sâu và diễn tả tính duy nhất và tính hoàn vũ của niềm tin Kitô Giáo cũng như thực thể Giáo Hội sao cho phù hợp với nền văn hóa mình.[52]
Khi Giáo Hội được hiểu là gia đình của Thiên Chúa ở trần gian thì không có sự ngăn cách nào giữa những người trong gia đình này. Tất cả mọi người đều đồng tâm nhất trí xây dựng Gia Đình Giáo Hội và ý thức rằng căn tính, đời sống và sứ mệnh của Gia Đình Giáo Hội cũng chính là căn tính, đời sống và sứ mệnh của con cái Giáo Hội. Biên giới tuổi tác, trình độ văn hóa hay những dị biệt khác không còn quan trọng nữa mà là sự hòa hợp của những con người cùng phẩm giá, nhưng khác biệt về chức năng trong Gia Đình Giáo Hội. Theo thánh Phao-lô, tương quan giữa những người lãnh đạo và các tín hữu cũng là tương quan trong gia đình. Ngài bộc lộ tâm tình với các tín hữu Cô-rin-tô: “Tôi nói với anh em như nói với con cái: Anh em cũng hãy mở rộng tấm lòng” (2 Cr 6,13).
Việc đào sâu, tìm hiểu căn tính, đời sống và sứ mệnh của Giáo Hội như là Gia Đình Thiên Chúa cho phép Giáo Hội trả lời cho những thách đố nảy sinh trong thế giới hôm nay liên quan đến đời sống nội tại của Giáo Hội, chẳng hạn, (1) vai trò của cá nhân trong Giáo Hội, (2) vai trò của Gia Đình Giáo Hội, (3) vai trò của các hình thức gia đình khác trong Giáo Hội. Việc đào sâu, tìm hiểu này cũng giúp Gia Đình Giáo Hội trả lời cho những thách đố khác đối với các gia đình cơ bản nói chung, chẳng hạn, (1) thách đố về quan niệm gia đình, (2) thách đố về đời sống gia đình, (3) thách đố về thần học gia đình, (4) thách đố về mục vụ gia đình, (5) thách đố về định hướng gia đình, (6) thách đố về vai trò của gia đình trong xã hội. Hơn thế nữa, việc đào sâu, tìm hiểu căn tính, đời sống và sứ mệnh của Giáo Hội như là Gia Đình Thiên Chúa còn cho phép Giáo Hội cung cấp hy vọng và viễn cảnh chính xác hơn cho toàn thể mọi người trong gia đình nhân loại. Đồng thời, cho phép Giáo Hội có được tiếng nói trong những vấn đề cụ thể như phân biệt đối xử bất công dựa trên văn hóa, sắc tộc, màu da, phái tính, đẳng cấp, tuổi tác hay hạn chế sinh sản bằng các phương thức trái tự nhiên, trái đạo lý hay nạn ly dị, tái hôn, lạm dụng tính dục và các hình thức ‘bần cùng hóa gia đình' đang nảy sinh trong xã hội hôm nay.[53]
Kinh nghiệm cuộc sống cho chúng ta nhận thức rằng những người trong gia đình yêu thương và liên đới với nhau cách chân thành và đúng đắn hơn những người thuộc các tổ chức tập thể khác. Bởi vì, ngôn ngữ gia đình là ngôn ngữ cả hai/và (both/and), ngôn ngữ của tương quan, liên đới, phụ thuộc lẫn nhau, nói cách khác, ngôn ngữ gia đình là ngôn ngữ tình yêu. Khi các Kitô hữu ý thức rằng họ là anh chị em trong cùng một gia đình thì trách nhiệm của họ đối với nhau luôn cụ thể và thiết thực. ‘Máu loãng hơn nước lã', các Kitô hữu là những người cùng chung ‘dòng máu', cùng chung ‘dòng sự sống' khởi từ Thiên Chúa. ‘Dòng máu', ‘dòng sự sống' này tích hợp và định hình ‘dòng máu sinh học', ‘dòng máu chủng tộc', ‘dòng máu quốc gia' hay bất cứ dòng máu nào khác.
Khi các Kitô hữu hiểu Giáo Hội như là gia đình thì sự quan tâm của họ đối với Giáo Hội sẽ khác đi. Họ không đến với Giáo Hội như đến với một câu lạc bộ. Họ không đến với Giáo Hội như là khán giả của một buổi hòa nhạc hay thể thao. Họ không đến với Giáo Hội như là một nghĩa vụ. Họ không đến với Giáo Hội theo những thời điểm rời rạc, nhưng là toàn bộ sự hiện hữu và cuộc sống họ. Các Kitô hữu đến với Giáo Hội bằng con tim đầy nhiệt tâm, yêu mến của họ, đồng thời, họ vững tin rằng chính nhờ Giáo Hội và qua Giáo Hội, họ tìm được nguồn hạnh phúc và bình an đúng nghĩa, bình an của Thiên Chúa, giữa những khó khăn, bất trắc của cuộc sống hằng ngày (Ga 14,27).
Khi các Kitô hữu nhận thức rằng nhờ bí tích Rửa Tội, họ trở thành con cái Thiên Chúa và anh chị em trong Gia Đình Thiên Chúa ở trần gian, thì cũng là khi họ nhận ra sự cần thiết để thúc đẩy tiến trình hiệp nhất Kitô hữu trên toàn thế giới (ecumenism). Tiến trình hiệp nhất này sẽ được triển nở khi các Kitô hữu nhận thức rằng họ là anh chị em một nhà. Sự chia rẽ trong Giáo Hội bởi các giáo phái khác nhau không làm mất đi căn tính gia đình của thực tại được Đức Giêsu thiết lập ở trần gian là chính Giáo Hội. Như đã được đề cập ở trên, Gia đình Giáo Hội luôn lớn hơn bất cứ cộng đoàn Kitô hữu nào: Công Giáo, Tin Lành, Anh Giáo, Chính Thống cũng như những cộng đoàn khác nhau phát sinh từ bốn nhánh chính này. Lời cầu nguyện của Đức Giêsu trước khi bước vào cuộc khổ nạn cho sự hiệp nhất của những ai bước theo chân Người vẫn còn vang vọng trong đời sống của các cộng đoàn tin nhận Đức Giêsu và thực thi giáo huấn của Người.[54]
Một trong những vấn nạn được nhiều người quan tâm hiện nay là chủ nghĩa khủng bố. Nhìn bên ngoài, chúng ta thấy khủng bố như là một hiện tượng chính trị, xã hội, nhưng tận căn, chúng ta thấy khủng bố đúng hơn là vấn nạn tôn giáo. Chính sự lạm dụng tôn giáo, tôn giáo quá khích dẫn tới khủng bố. Khi mà người ta cho rằng Thượng Đế đứng về phía họ, khi mà người ta cho rằng Thượng Đế của họ là vĩ đại nhất, khi mà người ta không công nhận tự do lương tâm, khi mà người ta cho rằng ai muốn an toàn thì phải suy nghĩ và hành động như họ vì họ được Thượng Đế hướng dẫn, khi đó người ta sẽ tìm mọi cách để hủy diệt người khác. Trái lại, khi người ta nhìn nhận rằng tất cả mọi người trong gia đình nhân loại đều là con cùng một Cha Trên Trời và tất cả mọi người là anh chị em của nhau, người ta sẽ có những suy nghĩ và hành động tích cực hơn. Lịch sử nhân loại minh chứng rằng tôn giáo cực đoan, tôn giáo quá khích không bao giờ là câu trả lời cho những đau khổ, bất an của gia đình nhân loại. Bao lâu con người chưa tìm được tiếng nói chung và không nhận nhau như anh chị em trong Gia Đình Thiên Chúa, bấy lâu con người còn phải chứng kiến những đau thương gây nên bởi anh em đồng loại.
Việc nhận thức Giáo Hội như là Gia Đình Thiên Chúa ở trần gian, đồng thời, nhận thức rằng ân sủng của Thiên Chúa hiện diện và hoạt động cách kỳ diệu nơi các tôn giáo khác cho phép Giáo Hội dấn thân trong việc đối thoại liên tôn cách hiệu quả hơn (interreligious dialogue). Khi đối thoại liên tôn được đặt nền tảng trên sự đối thoại giữa những người trong cùng gia đình nhân loại, cùng trăn trở về những chủ đề như Thượng Đế, vũ trụ và con người thì hiệu quả của việc đối thoại sẽ phong phú hơn là việc đối thoại đặt nền tảng trên sự khác biệt về thần học hay thực hành tôn giáo với những khái niệm và ngôn ngữ trừu tượng. Khi mọi người thuộc các tôn giáo khác nhau đều nhìn nhận chỉ có một Thiên Chúa là Đấng Sáng Tạo muôn vật muôn loài và toàn thể mọi người trong gia đình nhân loại từ tạo thiên lập địa cho đến tận thế đều chung một khởi điểm, một lịch sử, một hướng đi và một đích đến thì tiến trình đối thoại liên tôn sẽ vượt qua mọi rào cản.
Như là Gia Đình Thiên Chúa ở trần gian, Giáo Hội kêu mời tất cả mọi người trong gia đình nhân loại quan tâm, chăm sóc lẫn nhau trên bình diện cá nhân cũng như tập thể. Trong thế giới hôm nay, sự lãnh đạm của con người ngày càng phổ biến và lan rộng. ‘Toàn cầu hóa lãnh đạm' (globalisation of indifference) được xem là hệ quả tất yếu của chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa giải thiêng, chủ nghĩa thế tục và một số hình thức chủ nghĩa khác nảy sinh từ não trạng và lối sống thực dụng. Khi người ta khước từ Thiên Chúa, khước từ sự thánh thiêng, khước từ những giá trị trường cửu và không nhìn nhận nhau như anh chị em trong ngôi nhà chung của gia đình nhân loại, cũng là khi các hình thức chủ nghĩa như vậy nảy sinh và phát huy tác dụng. Lãnh đạm dẫn tới sự xuống cấp của đời sống gia đình trong xã hội loài người và làm cho con người ngày càng quy ngã trong khi thờ ơ với tha nhân cũng như không màng tới thế giới quanh mình.
Như là Gia Đình Thiên Chúa ở trần gian, Giáo Hội trở thành phương dược làm cho chủ nghĩa lãnh đạm và các hình thức chủ nghĩa khác ngày càng phai nhạt trong thế giới nhân sinh. Dõi theo Đức Giêsu và Tin Mừng của Người, Giáo Hội kêu mời tất cả mọi người trong gia đình nhân loại biết quan tâm phục vụ lẫn nhau trong hành trình tiến về Gia Đình Thiên Chúa sung mãn muôn đời.
Những xem xét, đánh giá và tổng hợp trên đây cho phép chúng ta nhận thức rằng bản chất của Giáo Hội là gia đình, đồng thời, cho phép chúng ta hiểu biết hơn về tương quan mật thiết giữa năm hình thức gia đình: Gia Đình Thiên Chúa, gia đình thế giới thụ tạo, gia đình nhân loại, Gia Đình Giáo Hội, gia đình cơ bản (cell of society/ ecclesia domestica). Từ khởi thủy, gia đình nhân loại vừa là đỉnh cao vừa là trung tâm của chương trình Thiên Chúa sáng tạo. Người chúc phúc và thánh hóa gia đình nhân loại để gia đình nhân loại cùng cộng tác với Người trong việc sáng tạo và chăm sóc thế giới thụ tạo. Mặc dù gia đình khởi thủy của nhân loại bất xứng, Thiên Chúa vẫn luôn yêu thương nâng đỡ. Trải qua thăng trầm lịch sử, gia đình nhân loại được Thiên Chúa dẫn dắt và khi tới thời viên mãn, Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa đã trở nên Con của gia đình nhân loại trong gia đình Na-da-rét để thông phần đau khổ và cứu độ gia đình nhân loại.
Trong sứ mệnh của mình, Đức Giêsu Kitô mạc khải về Gia Đình Thiên Chúa. Người cho các môn đệ của mình biết rằng Thiên Chúa, Cha của Người, cũng là Cha của họ và của những ai đón nhận Người và Tin Mừng của Người qua muôn thế hệ. Với Đức Giêsu Kitô, Gia Đình Thiên Chúa hiện diện và hoạt động giữa lòng nhân thế. Người đã thiết lập Giáo Hội như là Thân Thể Người, để Gia Đình Thiên Chúa tiếp tục hiện diện và hoạt động nhờ Giáo Hội. Ngay từ buổi đầu, các môn đệ Đức Giêsu đã sống bầu khí gia đình này. Sau khi Đức Giêsu Phục Sinh và với sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, họ đã ra đi loan báo Tin Mừng Gia Đình Thiên Chúa cho toàn thể nhân loại. Việc nhận thức Giáo Hội như là Gia Đình Thiên Chúa giúp chúng ta hiểu căn tính, đời sống và sứ mệnh của Giáo Hội ở trần gian là quy tụ tất cả mọi người về với Gia Đình Thiên Chúa.
Như là Gia Đình Thiên Chúa, Giáo Hội thông ban sự sống và nuôi dưỡng con cái mình bằng Lời Chúa, các bí tích và đời sống phụng tự, đồng thời, Giáo Hội phục vụ gia đình con cái mình giữa những bấp bênh, đau khổ, khó khăn trong cuộc sống. Giáo Hội khuyến khích toàn thể con cái mình luôn hiệp thông với Giáo Hội và với nhau để loan báo Tin Mừng Gia Đình Thiên Chúa giữa môi trường sống của mình. Trong khi loan báo Tin Mừng Gia Đình Thiên Chúa, Giáo Hội phục vụ gia đình nhân loại bằng chính những giá trị của Gia Đình Thiên Chúa mà Giáo Hội lãnh nhận, sống và được ủy thác trao ban. Giáo Hội diễn tả Gia Đình Thiên Chúa cách trung thực nhất và luôn thâm tín rằng Gia Đình Thiên Chúa là khởi thủy, niềm hy vọng và cùng đích của gia đình nhân loại cùng toàn thể thế giới thụ tạo.
Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 124 (Tháng 5 & 6 năm 2021)
[1] Ở một số nước Hồi Giáo, đặc biệt là ở Trung Đông, gia đình đa thê không chỉ thuộc văn hóa, truyền thống mà còn được pháp luật cho phép và bảo vệ.
[2] Xa hơn nữa, người ta cũng dùng từ ‘gia đình' để chỉ thế giới động, thực vật (gia đình sư tử, gia đình gấu, gia đình khỉ, gia đình cây dương xỉ, gia đình cây tùng) hay gia đình thế giới thụ tạo.
[3] Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Gaudium et Spes 52 (1965).
[4] Xem thêm Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô, Thông Điệp Laudato Si’ 213 (2015).
[5] Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo 1657.
[6] Trong Kinh Thánh Cựu Ước, thay vì dùng từ gia đình (family) theo nghĩa hiện đại, người ta thường dùng từ như nhà cha (father’s house) hay những người sống chung dưới mái nhà hay trong một nơi nào đó với người chủ là nam giới (household). Gia đình được hiểu theo nghĩa rộng nhiều hơn, chẳng hạn, những người cùng dân tộc, bộ tộc, thị tộc.
[7] Xem thêm Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo 372; 1642
[8] Nô-ê được diễn tả là “người công chính, hoàn hảo giữa những người đồng thời và ông đi với Thiên Chúa” (St 6,9).
[9] Xem thêm Rm 4,11-12.16-17
[10] Xem thêm Cv 3,25; Rm 9,6; Gl 3,29.
[11] Xem thêm Ep 3, 14-15.
[12] Karl Rahner, in God as Trinity, ed. by Ted Peters (Louisville: John Knox Press,1973), 22 (the economic Trinity is the immanent Trinity, and vice-versa).
[13] Đức Giê-su hiện diện giữa nhân loại, tuy nhiên, Người vẫn luôn thuộc về Gia Đình Thiên Chúa. Với việc Nhập Thể, Đức Giê-su vừa thuộc về Gia Đình Thiên Chúa, vừa thuộc về gia đình nhân loại.
[14] Xem thêm thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II, Tông Huấn Familiaris Consortio 86 (1981).
[15] Xem thêm Rm 8,14; 1 Ga 3,2; Gl 3,26 và St 1,26-27; St 9,6.
[16] Xem thêm Ga 6,47-51.
[17] Is 7, 14: “Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai và đặt tên là Emma-nu-en.” Như thế, Is 7,14 không có phần giải thích ‘Em-ma-nu-en nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta‘ như Mt 1,23.
[18] Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Lumen Gentium 6 (1964).
[19] Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Lumen Gentium 6.
[20] Xem thêm Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đích-tô XVI, Thông Điệp Deus Caritas Est 25 (2005).
[21] Xem thêm Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Lumen Gentium 8.
[22] Xem Hội Đồng Giám Mục Châu Phi: Message of the Synod 24 (1994).
[23] Xem thêm Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Gaudium et Spes 22.
[24] Xem Giáo Luật (1983) 204
[25] Xem thêm Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô, Evangelii Gaudium 47 (2013).
[26] Xem thêm Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Lumen Gentium 9.
[27]Xem thêm thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II, Tông Huấn Familiaris Consortio 28.
[28] Xem thêm Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Lumen Gentium 11.
[29] Xem thêm Dt 13,7-16.
[30] Xem thêm Is 25,6-10; Mt 8,11; Mt 22,1-14; Lc 14,15-24.
[31] Xem thêm 1 Cr 12,12-30
[32] Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đích-tô XVI, Thông Điệp Deus Caritas Est 25.
[33] Xem thêm thánh Giáo Hoàng Phao-lô VI, Thông Điệp Ecclesiam Suam 1 (1964).
[34] Trong truyền thống và văn hóa Do-thái, khi người nữ lấy chồng thì về nhà chồng. Tuy nhiên, theo các học giả Kinh Thánh, từ xa xưa, khi người chồng lấy vợ thì về nhà vợ. Điều đó cho chúng ta thấy rằng về nhà chồng hay về nhà vợ sau khi trở thành vợ chồng không quan trọng bằng việc hai người trở thành gia đình mới.
[35] Thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II, Tông Huấn Familiaris Consortio 17; xem thêm Ep 5,21-33.
[36] Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đích-tô XVI, Thông Điệp Deus Caritas Est 2.
[37] Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đích-tô XVI, Thông Điệp Deus Caritas Est 11
[38] Thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II, Thông Điệp Redemptor Hominis 10 (1979).
[39] Thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II, Tông Huấn Ecclesia in Oceania 45 (2001).
[40] Thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II, Thông Điệp Centesimus Annus 39 1991); xem thêm Tông Huấn Ecclesia in America 46 (1999).
[41] Xem thêm Cv 12,12; Rm 16,5; Cl 4,15
[42] Công Đồng Vatican II, Sắc Lệnh Apostolicam Actuositatem 11.
[43] Xem thêm thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II, Tông Huấn Ecclesia in Asia 46 (1999).
[44] Xem thêm Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Lumen Gentium 35.
[45] Xem thêm Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Lumen Gentium 11.
[46] Xem thêm thánh Giáo Hoàng Phao-lô VI, Tông Huấn Evangelii Nuntiandi 71 (1975).
[47] Xem thêm thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II, Tông Huấn Familiaris consortio 84
[48] Thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II, Thông Điệp Redemptor Hominis 14
[49] Thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II, Letter to Families 3 (1994).
[50] Xem thêm thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II, Tông Huấn Familiaris Consortio 75 và Tông Huấn Ecclesia in Africa 50.
[51] Xem thêm Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Lumen Gentium 3, 7, 9, 17. Mỗi hình ảnh có những giới hạn nhất định. Tổng hợp các hình ảnh Giáo Hội cũng không thể diễn tả đầy đủ thực thể Giáo Hội. Nhiều hình ảnh diễn tả Giáo Hội thì tốt hơn là ít hình ảnh. Khi diễn tả Nước Thiên Chúa, Đức Giê-su không chỉ dùng một hình ảnh mà nhiều hình ảnh, chẳng hạn, hình ảnh hạt cải, men trong bột, ruộng lúa.
[52] Xem thêm thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II, Tông Huấn Ecclesia in Africa 63.
[53] Xem thêm Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Gaudium et Spes 29.
[54] Xem thêm Ga 17, 1-26.