Triết Học Trong Việc Định Hướng Các Ý Niệm Giới (Phần II)

Mon,14/04/2025
Lượt xem: 304

II.        Tri thức luận trong việc chỉ ra sai lầm của định kiến giới

Bằng cách sử dụng các phương pháp phân tích, nghiên cứu và suy luận của tri thức luận để đưa ra đánh giá về cách mà định kiến giới được hình thành và duy trì trong xã hội. Thông qua tri thức luận, chúng ta có thể tiếp cận vấn đề định kiến giới bằng tư duy phản biện để mang đến sự thay đổi trong cách nhìn về vấn đề này:

1.          Định kiến giới xét như một thường kiến

Bắt đầu với định nghĩa về thường kiến, được coi như sự nêu ý kiến về một đối tượng trong một động thái của tâm trí. Chúng ta nhận thấy sự khác biệt giữa việc nêu ý kiến và tri thức như trong mối liên hệ giữa tính xác suất và tính chắc chắn. Thường kiến được coi như một vũ khí lợi hại của kẻ hoài nghi khi họ quan niệm rằng mọi sự vật chỉ là thường kiến, rằng mọi ý kiến đều là chủ quan và không có ý kiến nào hay hơn ý kiến khác, nó đến từ sở thích. Xét về mặt chân lý, thường kiến cho dẫu đúng cũng không mang lại một cái nhìn đầy đủ về nguyên nhân của vấn đề. Thường kiến không mang tính hợp lý, nó chỉ mang tính xác suất. Tri thức hệ tại ở chỗ có chân lý và cả luận lý cho tính hợp lý của nó, tri thức không thể sai sự thực cũng không thể bất hợp lý, nhưng thường kiến thì không như vậy.[1] Thế nhưng, liệu khi thường kiến được đồng ý một cách phổ biến, nó có thể trở thành tri thức không? Hẳn ta phải công nhận rằng, ta có quyền trên thường kiến chứ không phải tri thức. Thường kiến cho ta cơ hội để lý giải vấn đề theo quan điểm cá nhân, không giống với sự chính xác của tri thức. Điều có vẻ được công nhận là thường kiến dường như chỉ có giá trị khi được đặt trong một sự đồng thuận đa số. Để làm rõ vấn đề này, ta phải cẩn trọng xem xét giữa hai phạm trù xung đột và đồng thuận. Chắc chắn ta vẫn luôn bắt gặp tình trạng xung đột giữa hai quan điểm đều có tính hợp lý, ngay cả khi bất đồng, chúng vẫn là hợp lý. Vậy thì đạt được sự đồng thuận có chăng sẽ xuất hiện chân lý, hay đó chỉ là ảo ảnh che lấp đi chân lý bởi đa số.

Vậy, định kiến giới xét như một thường kiến có vẻ đạt được sự đồng thuận qua rất nhiều những thế kỉ nhưng tính đúng đắn của nó có thật sự là tất yếu. Khi đã lắng nghe rất nhiều những tư tưởng của những triết gia thông thái được coi là đã định hướng nền tư tưởng nhân loại, có điều gì đó sai lầm trong những thường kiến mà họ đã tạo ra cho số đông còn lại hay không? Qua bao thời kì, chế độ nam quyền đã đặt lên cổ người nữ bao nhiêu chiếc còng của sự tùng phục, sự áp đặt và miệt thị. Cũng không thể phủ nhận rằng ngay chính bộ phận nữ giới cũng góp phần không nhỏ trong việc duy trì định kiến giới, họ bị bó buộc trong hệ tư tưởng với quan điểm rằng họ không có quyền độc lập trong suy nghĩ và hành xử. Sự phụ thuộc kéo họ và cả những người nữ khác vào trong cái tròng mà họ tự khoác lên cho nó là vẻ đẹp hay bản sắc của giới tính.

Thường kiến này có lẽ dần tự phủ nhận sự đúng đắn khi nền văn minh nhân loại đã chuyển hướng sang sự toàn cầu hóa. Người nữ được đặt vào một môi trường có cơ hội để tham gia và chứng tỏ tính cá vị độc lập của mình với sự giảm thiểu tính lệ thuộc vào nam giới như trước đây. Các ngành khoa học thực nghiệm cũng đã chứng tỏ được sự phát triển cân xứng của hai giới về bản chất năng lực và những khả năng bẩm sinh. Không thể phủ nhận sự khác biệt trong tâm sinh lý của hai giới nhưng tất cả những điều đó không khiến cho nam giới vượt trội hơn hơn nữ giới về khả năng và vai trò. Dần dà, triết học đã kéo sự xác suất của định kiến giới về phía sai lầm khi thuyết nữ quyền ra đời và từng bước có những tiếng nói mạnh mẽ trong xã hội. Nữ giới cũng tiềm ẩn những giá trị thiêng liêng của phần “người” như nam giới. Có lẽ, người nữ là điều gì đó bí ẩn nhưng cũng minh nhiên, vượt qua quyền lực nhưng cũng không thực sự nắm quyền lực. Họ là một nửa để tạo nên thế giới này.

2.          Định kiến giới xét như niềm tin trong mối quan hệ với nhận thức

Để tìm hiểu về mối quan hệ giữa niềm tin và nhận thức không thể không bàn tới vấn đề Gettier. Gettier trong một bài báo năm 1963 của mình mang tựa Is Justified True Belief Knowledge? phản biện lại vấn đề về quan điểm cho rằng tri thức là một niềm tin đúng và được biện minh. Gettier lập luận rằng có những trường hợp một niềm tin là đúng và được biện minh, nhưng không phải là tri thức. Ông cho rằng đây chỉ là một điều kiện cần, không phải là điều kiện đủ của tri thức. Hàm ý đó cũng được hiểu rằng không ai có thể thu được tri thức chỉ bằng cách tạo niềm tin về vấn đề nào đó. Cho dẫu niềm tin đó có trở thành sự thật thì nó cũng chỉ là sự thiếu kiểm chứng về niềm tin của mình. Như trong biểu đồ, một niềm tin (màu tím) có thể là đúng (màu đỏ) nhưng không phải là tri thức (màu vàng).

Nhận thức và niềm tin được coi như là vai trò quan trọng trong quá trình hình thành và đánh giá tri thức. Chúng ta biết rằng niềm tin thường dựa trên những bằng chứng hoặc lý lẽ ta coi là có giá trị thông qua kinh nghiệm hoặc bị ảnh hưởng từ những nguồn khác. Một niềm tin được coi là đúng đắn và đáng tin cậy khi được chứng minh cách rõ ràng, nhất quán và phù hợp với bằng chứng. Tuy thế, quá trình đánh giá tri thức không chỉ được xét qua niềm tin nhưng còn bởi các yếu tố như cách chúng ta nhìn nhận thông tin, và tương tác với môi trường xung quanh.[2]

Để minh họa một niềm tin về định kiến giới như thế nào, ta giả sử một người đàn ông được sinh ra trong một môi trường xã hội truyền thống với quan niệm nam quyền, sống xung quanh những người có cùng ý niệm về sự yếu kém của nữ giới. Quan điểm này sẽ càng trở nên chắc chắn khi ông sống trong gia đình với những người nữ có những giới hạn về thể chất và trí tuệ. Đương nhiên, trong nhiều trường hợp, anh ta sẽ hình thành niềm tin sai lầm về khả năng của nữ giới. Anh không có lý do gì để nghi ngờ về quan điểm của mình vì rằng anh sống quanh những người có cùng niềm tin đó và những bằng chứng cũng mang đến cho anh những ý niệm đó, nên niềm tin của anh là có cơ sở. Giả sử thêm rằng, một lần nào đó anh có nghe về một niềm tin khác, rằng nữ giới thì bình đẳng với nam giới về khả năng và vai trò trong xã hội, anh muốn kiểm chứng nó nên đã gặp gỡ và tiếp xúc với một người nữ để có sự so sánh với bản thân mình. Điều này mang đến thêm một bằng chứng rằng người nữ đó thì hoàn toàn kém cạnh mình cả về khả năng tư duy và hành động. Niềm tin của anh lần này là đúng sự thật và chính đáng nhưng kết quả của nó chỉ đến từ sự may mắn và hoàn toàn chỉ mang tính xác suất. Ta thấy rằng niềm tin của anh không được hình thành từ bất kì sự suy luận sai lầm nào nhưng rõ ràng niềm tin của anh không được coi như giải pháp cho việc tìm kiếm tri thức. Niềm tin này không hình thành nên tri thức và chân lý.

Từ định nghĩa trên, chúng ta có thể nhận ra định kiến giới xét như niềm tin đã hình thành lâu đời trong tâm thức của mỗi người thông qua sự ảnh hưởng của xã hội, giáo dục và các hệ thống giá trị. Niềm tin cho rằng nữ giới thì yếu đuối, không đủ khả năng để thực hiện những vai trò xã hội có lẽ vẫn còn thiếu rất nhiều kiểm chứng để trở thành tri thức. Mặc dù có thể đưa ra được những bằng chứng về sự khác biệt về trí thông minh giữa các cá nhân của cả hai giới, mặc dù sẽ luôn có những vấn đề khác biệt về yếu tố tâm sinh lý của cả hai nhưng tất cả những điều đó chưa đủ để kết luận về sự yếu kém của nữ giới. Sự hạn chế cơ hội trau dồi tri thức đích thực ở nữ giới có lẽ là điều khiến cho lý trí của họ trở nên hạn hẹp và bị coi thường chứ không phải là điều tự nhiên được chấp nhận như một chân lý. Nữ giới ngay từ đầu đã bị đặt vào miền sa mạc khô cằn với sự thiêu đốt của khao khát chiếm lĩnh bởi các giác quan nam giới. Trong Đòi hỏi các quyền của phụ nữ của Mary Wollstonecraft,[3] bà đã rất cương quyết khi kêu gọi nữ giới tự giành lại quyền cho chính mình trong lĩnh vực trí tuệ, bà viết về phụ nữ:

Được thừa hưởng địa vị độc tôn của cái đẹp, nếu họ muốn duy trì khả năng này của họ, họ phải từ khước các quyền tự nhiên mà việc sử dụng lý trí có thể cung cấp cho họ, và thay vào đó, chọn làm những bà hoàng nhất thời thay vì lao động để đạt được những lạc thú đơn giản phát sinh từ sự bình đẳng. Được tâng bốc bởi sự yếu kém của mình, họ luôn luôn đòi hỏi được kính trọng như những người đàn bà, mặc dù kinh nghiệm phải dạy cho họ thấy rằng, những người đàn ông từng lấy làm hãnh diện khi bày tỏ sự kính trọng xấc xược này đối với nữ giới, với một sự chính xác tỉ mỉ nhất, thì hầu như chắc chắn sẽ hành hạ và khinh bỉ chính sự yếu đuối mà họ ưa thích…”[4]

Với việc trở nên ù lỳ trong nhà giam mà mình bị đặt vào, phụ nữ đang góp phần không nhỏ trong việc duy trì trật tự xã hội này. Cần phải có sự mạnh mẽ và can đảm của lý trí để đứng lên trước niềm tin này và hy sinh những niềm vui nhất thời để đạt được sự tự tôn cho bản thân.

Bên cạnh đó, niềm tin tri thức có lẽ sẽ không thể bền vững nếu như không có sự hậu thuẫn mạnh mẽ của các xúc cảm. Việc hình thành các xúc cảm của định kiến giới xuất hiện sớm hơn những niềm tin về nó, việc này khiến cho việc loại bỏ những định kiến giới càng trở nên khó khăn hơn. Hẳn bạn đã kinh nghiệm nhiều về việc thiết lập định kiến về một đối tượng nào đó. Nó xuất phát từ những cảm xúc tiêu cực khi phải tiếp xúc với đối tượng đó. Dần dà, cảm xúc đó trở nên một bức thành trì nhốt chúng ta trong một niềm tin định kiến khó lòng phá đổ chỉ bởi việc thay đổi nhận thức về đối tượng đó. Vì thế, hãy bắt đầu thay đổi niềm tin bằng việc thay đổi cảm xúc!

3.          Định kiến giới xét trong tri thức luận xã hội

Tại sao nhiều người cho rằng màu đỏ là thể hiện sự nam tính, trong khi màu hồng tượng trưng cho phái yếu. Hay uống rượu bia là nam tính trong khi gọi một ly trà sữa là nữ tính. Hương vị trà sữa chẳng lẽ cũng có màu sắc của giới tính? Đây chỉ là một trong vô vàn những dấu hiệu mà xã hội tạo ra để phân biệt giới tính. Giới tính có lẽ mang màu sắc cá nhân và xã hội hơn là yếu tố sinh học. Một triết gia người Pháp Simone de Beauvior[5] đã viết một cuốn sách đột phá về chủ đề này vào năm 1949. Vào thời điểm đó, người ta vẫn quan niệm rằng phụ nữ mang trong mình bản chất ‘nữ tính’ tự nhiên và bẩm sinh. Trong The Second Sex, bà đã nghiên cứu lịch sử văn hóa và triết học Tây Âu để chỉ ra rằng vai trò của giới được xác định rõ ràng bởi xã hội, không chỉ ở cấp độ luật pháp mà còn trong văn học, đạo đức và những tập quán hàng ngày. “Một người không được sinh ra như một phụ nữ mà trở thành phụ nữ”[6] có lẽ là câu nói nổi tiếng nhất của Beauvoir. Theo quan điểm này, khái niệm về giới và tính nữ được định hình bởi văn hóa, và nó không mang một bản chất tự nhiên.

Khuôn mẫu xã hội[7]: Điều có lẽ đúng là định kiến giới bắt nguồn từ các khuôn mẫu xã hội. Khuôn mẫu xã hội được coi như một bức tranh về thế giới được điều chỉnh và quyết định bởi nền văn hóa đã hình thành và ổn định trong đầu con người. Khuôn mẫu như một phương thức cho những ý niệm trừu tượng giúp cho việc tri giác các đối tượng phức tạp nằm ngoài sự hiểu biết của con người, giúp thu nhận thông tin nhanh chóng dựa trên các kinh nghiệm đã có sẵn. Nó đặt đối tượng tri giác vào trong một khung cảnh đã có sẵn để mã hóa nó dễ dàng và đơn giản. Cũng chính vì thế mà khuôn mẫu mang tính cứng ngắc, đơn điệu và thiếu đầy đủ về đối tượng. Định kiến giới xét trong khuôn mẫu xã hội được coi như sự nhìn nhận dựa trên những thuộc tính của nhóm giới tính chứ không mang những kinh nghiệm thực tế của cá nhân riêng lẻ.

Thực vậy, khuôn mẫu về giới tính ảnh hưởng lên xã hội và cách mà chúng phân bố quyền lực. Ngay từ khi mới sinh, gia đình là nơi đã dạy cho chúng ta những ý niệm về giới tính và cách chúng ta suy nghĩ và hành xử cũng phụ thuộc vào điều này. Bạn được cho đồ chơi búp bê, mặc váy hồng, được dạy phải nhẹ nhàng và phát triển các kỹ năng đồng cảm cũng như sự tinh tế và nhạy cảm với người khác và thế giới. Và nếu có những động thái ngược lại với những gì được dạy, có lẽ bạn sẽ bị hạ giá và bị nhìn nhận là dị biệt. Tư tưởng Phụ hệ ảnh hưởng lên rất nhiều các biểu hiện trong xã hội, nam giới được coi là có tri thức và đủ bản lĩnh để nắm quyền lực, họ được trao nhiều lợi ích từ quyền lực và những đặc quyền để phát triển các hành vi xã hội thay vì nữ giới, những người thường được khuyên là nên an phận thủ thường, ở nhà để chăm sóc con cái và gia đình họ.

Một ví dụ về cách xã hội ảnh hưởng lên giới tính của con người được miêu tả đặc sắc trong tác phẩm “Sex and Temperament in Three Primitive Societies” của nhà nữ quyền người Mỹ Margaret Mead. Trong khi tiến hành nghiên cứu đa văn hóa về vai trò của giới tính và tư duy trong ba xã hội nguyên thủy khác nhau, bà đã đi đến một kết luận khá thú vị. Trong xã hội Mundugumor, cả nam và nữ đều có đặc trưng là tính cách hung ác và thích xung đột, trong khi ở xã hội Arapesh, cả hai giới đều có tính cách nhân từ và dịu dàng. Còn trái ngược với phong cách truyền thống, nữ giới trong xã hội Tchambuli có tính cách ngoại giao, thích thể hiện bản thân trong khi nam giới nhút nhát và chăm lo gia đình.[8] Kết quả đã chứng minh được tính không tuyệt đối của vai trò giới tính và nó hoàn toàn có thể biến đổi theo những chuẩn mực văn hóa và xã hội khác nhau. Chính việc nghiên cứu trên lãnh vực của tri thức luận xã hội đã thúc đẩy sự nhận thức và tư duy về việc xem xét đánh giá giới tính từ những góc nhìn đa diện và toàn cảnh hơn về ý niệm giới. 

Thay vì ép buộc một nửa thế giới vào cái khuôn mẫu không phù hợp và thiếu nhân đạo, tại sao chúng ta không tạo ra một thế giới của sự tự do đích thực, nơi mỗi người đều được hưởng lợi từ chính năng lực và phẩm giá của mình? Nhìn vào lịch sử nền văn minh nhân loại, nữ giới có lẽ sẽ không được khắc tên lên tấm bảng ghi công, nhưng không được phép phủ nhận những đóng góp của họ. Nữ giới là điều gì đó không thể thiếu để kiện toàn thế giới này chứ không chỉ là một phần phụ thuộc, như Simone de Beauvior đã phân tích:

Đàn ông tìm thấy nơi đàn bà cái Khác như là bản tính của mình và bạn đồng hành của mình. Nhưng chúng ta biết bản tính khơi dậy những tình cảm rất mơ hồ nơi đàn ông. Họ khai thác đàn bà, nhưng đàn bà làm nát lòng họ, họ sinh ra cho đàn bà và chết cho đàn bà; đàn bà là nguồn sự sống của họ và là lĩnh vực mà họ bắt khuất phục dưới ý muốn của họ; Đàn bà là thực tại tối cao, họ là sự tình cờ và là Ý tưởng, là cái hữu hạn và cái toàn thể; họ là cái đối chọi với Tinh thần và là chính Tinh thần. Khi thì là đồng minh, khi thì là kẻ thù, đàn bà xuất hiện như sự hỗn mang của tăm tối từ đó phát sinh sự sống, như là chính sự sống và như là cái đích bên kia mà sự sống hướng tới. Đàn bà tóm gọn bản tính như là Mẹ, là Vợ, và Ý tưởng…”[9]

III.     Đạo đức học đề ra giải pháp cho các vấn đề về giới

Việc phân tích định kiến giới từ những góc nhìn khác nhau của triết học dù ở bình diện cá nhân là thường kiến và niềm tin hay ở góc độ xã hội của tri thức luận dường như đều mang lại sự chứng minh sai lầm mà nó đề ra. Triết học đã cung cấp những công cụ tư duy để tìm hiểu sâu về bản chất và nguyên nhân của vấn đề, phục vụ cho việc nghiên cứu và định hình lại những quan hệ về giới trong xã hội. Sự mất tự do để thể hiện chính mình như là những con người đúng nghĩa đã làm cho sự đối chọi giữa nam và nữ trở nên mạnh mẽ, liên tục và âm ỷ. Đây chính là lúc mà đạo đức học nhập cuộc để trở nên định hướng cho những giá trị cốt lõi mà tri thức luận đã vạch ra những sai lầm trước đó. Vấn đề thảo luận triết học không chỉ dừng lại ở việc đưa ra những vấn đề thực nghiệm chứng minh những sai lầm nhưng còn là sự xác lập tính bình đẳng về vai trò giới tính trên nền tảng của các khái niệm về công bằng, tự do và bình đẳng.

Hẳn chúng ta đã từng chứng kiến rất nhiều bất công mà sự phân biệt đã tạo ra cho cuộc sống này. Chúng ta được sinh ra đều bình đẳng: dù là nam hay nữ, trắng hay đen, giàu hay nghèo. Bất cứ ai nghĩ rằng mình có quyền trên người khác đều đi ngược lại với yếu tính tự nhiên. Và bất cứ bất công nào trong thế giới này đều là vết thương làm tổn hại đến phẩm giá của mỗi chúng ta. Đạo đức học không chỉ dừng lại ở việc trả lời vấn đề là đúng hay sai nhưng còn là hướng dẫn cho mỗi một nhận thức, mỗi một hành động trong mối tương quan với cá nhân và xã hội. Đạo đức học lúc này đóng vai trò như người điều phối, phán đoán và thúc đẩy hành động vì mục tiêu tối thượng là hạnh phúc con người. Giải quyết các vấn đề về tính tương đối hay tuyệt đối; tất định hay bất định; chủ quan hay khách quan là những thách thức đòi hỏi ở những học thuyết đạo đức một sự tỉnh táo và hợp lý để trả lời cho những con người của thời đại này.

Sự ra đời của chủ nghĩa Nữ quyền đã đánh dấu bước tiến mạnh mẽ của triết học trong việc đề ra một loạt các lý thuyết và quan điểm khám phá và phê phán các định kiến giới. Bên cạnh đó, lý thuyết Queer[10] cũng đã thách thức các quan điểm trước đó của xã hội về giới tính và tình dục. Thời điểm hiện tại xuất hiện những vấn đề về giới phức tạp và rắc rối hơn rất nhiều đòi hỏi triết học phải luôn sẵn sàng ở trạng thái phản tư để tiếp cận và trả lời cho những thách thức cấp bách của thời đại. Vấn đề không phải là tranh giành quyền lợi về cho các giới nhưng là xây dựng một thế giới tự do cho từng cá nhân để họ có cơ hội sống xứng đáng với nhân phẩm của mình.

Sự hỗ tương…

Cũng phải thừa nhận rằng các vấn đề về giới cũng quay lại và đóng góp không nhỏ trong việc phát triển các học thuyết đạo đức cách toàn diện và hiệu quả. Trong quá trình lý giải những vấn đề về giới, các nhà triết học đã phát hiện ra sự khác nhau trong các tiêu chuẩn đạo đức của mỗi giới. Đạo đức của nữ giới nhấn mạnh đến việc chăm lo cho người khác trong khi nam giới là tôn trọng quyền lợi và chống lại sự can thiệp vào quyền cá nhân. Nhà khai sáng thuyết Nữ quyền: Carol Gilligan[11] đã có một tác phẩm kiệt xuất về phân tích tâm lý giữa nam và nữ giới, có lẽ chính sự khác biệt này đã khiến cho nữ giới có lý do để nhún nhường, vì ý nghĩa của họ là sống trong mối quan hệ với người khác, không giống như nam giới, sống trong việc thể hiện ‘cái tôi’:

Ngay từ khi còn nhỏ, các cô gái đã phát hiện ra rằng họ giống mẹ của mình. Trưởng thành có nghĩa là từ bỏ quyền tự do ngôn luận để bảo vệ người khác và duy trì các mối quan hệ. Khác hẳn các cô bé, nhiệm vụ tinh thần đầu tiên của các cậu bé là hiểu rằng họ không (và sẽ không bao giờ) giống như mẹ của họ. Trưởng thành có nghĩa là từ bỏ những mối quan hệ, nhằm bảo vệ quyền tự do và thể hiện bản thân. Kết quả là những người đàn ông trưởng thành coi mình tách biệt với người khác và những phụ nữ có lối suy nghĩ khác với họ.[12]

Chính từ đây, chúng ta thấy xuất hiện một nền đạo đức chăm sóc,[13] quan tâm đến “tiếng nói” đạo đức khác biệt và mối liên hệ với mỗi giới. Trong khi phân tích các quan điểm và mệnh lệnh đạo đức khác biệt này, ta tìm ra được con đường cho đạo đức học khi nó được hệ thống trong một cấu trúc vừa bình đẳng, vừa hỗ tương; vừa là quyền lợi, vừa là trách nhiệm; vừa mềm mỏng mà cũng vừa cứng rắn, nhằm từng bước điều chỉnh lại xu hướng coi quan điểm về nam giới xét như nguyên mẫu cho nhân loại trong lý luận đạo đức.

Sự tương tác qua lại giữa đạo đức học và các vấn đề giới tính thể hiện sự cởi mở của cả hai khi cùng hướng đến một vấn đề trọng yếu: bản chất con người. Đạo đức học giữ vai trò định hướng; các vấn đề xã hội cũng quay lại để kiện toàn, biến triết học thành một ông thầy không ngừng cập nhật để dẫn dắt những đứa học trò của mình bước vào thế giới cách tự tin và vững chãi. Họ đều là thầy và là trò của nhau, cùng nhau mưu cầu sự tốt đẹp cho thế giới này.  

Kết luận

Xuyên suốt dòng lịch sử, triết học đóng vai trò như một chủ thể định hình những ý niệm giới. Ở đó, ta bắt gặp ở triết học cả sự sai lầm. Tuy thế, trong sự phản tư chính mình, nó đã tự phô bày những sai lầm đã từng thiết lập để từ đó từng bước đưa ra những cách thế sửa sai và đóng góp cho sự thay đổi tư duy về giới. Hiện tại cũng đang đặt ra rất nhiều những vấn đề thách thức mà nếu không có sự tham vấn của triết học, mọi thứ sẽ trở nên lệch lạc và sai lầm. Triết học thông qua tri thức luận và đạo đức học đã định hướng không chỉ riêng ở vấn đề định kiến giới nhưng còn mở rộng ra là những vấn đề xã hội và hiện sinh. Bên cạnh đó, ta cũng nhận ra được những vấn đề xã hội xét như đối tượng của triết học giúp nuôi dưỡng và mang lại ý nghĩa cho sự tồn tại của triết học. Chính sự tương tác qua lại của triết học và những vấn đề xã hội như giới tính đã thúc đẩy cả hai tiến dần đến sự tự do đích thực của Chân lý ngang qua những đóng góp cho lãnh vực của đạo đức và hiện sinh.

Bên cạnh sự đấu tranh cho bình đẳng giới, người viết cũng ý thức rõ những khác biệt tồn tại ở hai giới trong lãnh vực tâm sinh lý, nhưng những khác biệt này không có quyền nâng cấp hay hạ bệ bất cứ ai trong xã hội. Khác biệt là điều hiển nhiên tồn tại trong thế giới, và đó chính là lý do để thế giới không ngừng được kiện toàn vì sự bổ trợ và cùng nhau hòa hợp. Bằng cách đề cao sự khác biệt, chúng ta có thể tạo ra một thế giới đầy những giá trị phong phú, nơi mà mọi tiềm năng con người sẽ tìm được một miền đất màu mỡ phù hợp để phát triển. Mong rằng bài tiểu luận này sẽ như một lời mời gọi mọi người đi ra khỏi những nhận thức thiếu quân bình của ý niệm phái tính để cuộc sống nhân loại trở nên hài hòa hơn với vô số những gam màu sáng tối chứ không còn là sự chiếm lĩnh của một gam màu ảm đạm đã chiếm lĩnh nhân loại suốt chiều dài lịch sử.

Anê Thành - Nguyễn Ngọc Tâm, OPTT.


 

Tài liệu tham khảo

Durant, Will. Câu Truyện Triết Học. Dịch giả Trí Hải và Bửu Đích. Hà Nội: Văn hóa & Thông tin, 2008.

Edmund, L. Gettier. “Is Justified True Belief Knowledge?” Analysis Volume 23, Issue 6, 01 June 1963, 121–123. https://doi.org/10.1093/analys/23.6.121

Gilligan, Carol. In a different voice. New York: Harvard University Press, 1982.

Grasswick, Heidi. “Feminist Social Epistemology”. The Stanford Encyclopedia of Philosophy. Zalta, Edward N., ed. July 24, 2018. https://plato.stanford.edu/entries/feminist-social-epistemology/

Macionis, John J. Sociology. Dịch giả Trần Nhật Tân. Hà Nội: Thống Kê, 2004.

Mead, Margaret. Sex and Temperament in Three Primitive Societies. Harper Perennial, 1971.

Mortimer, J. Adler. Cùng Suy Nghĩ về Những Ý Niệm Lớn. Dịch giả Phạm Viên Phương và Mai Sơn. Nes Education & Hồng Đức, 2019.

O’Connor, Cailin, Sanford Goldberg, and Alvin Goldman. “Social Epistemology.” The Stanford Encyclopedia of Philosophy (Winter 2023 Edition), Edward N. Zalta & Uri Nodelman (eds.). https://plato.stanford.edu/entries/epistemology-social/#Aca

Simone de Beauvoir. The Second Sex. Translated by C. Borde and S. Malovany-Chevallie. New York: Vintage, 2010.

Stumpf, Samuel Enoch. Lịch Sử Triết Học và Các Luận Đề. Hà Nội: Lao Động, 2004.

Stumpf, Samuel Enoch, and Donald C. Abel. Nhập Môn Triết Học Phương Tây. Dịch giả Lưu Văn Hy. HCM: Tổng Hợp Tp.HCM, 2004.



[1] Mortimer J. Adler, Cùng Suy Nghĩ về Những Ý Niệm Lớn, Phạm Viên Phương và Mai Sơn dịch (HCM: Nes Education & Hồng Đức, 2019), 34-43.

[2] Edmund L. Gettier, Is Justified True Belief Knowledge? (Analysis, Volume 23, Issue 6, 01 June 1963), 121–123.

[3] Mary Wollstonecraft (1759-1797): là một nhà văn, nhà triết học và nhà bảo vệ quyền phụ nữ người Anh ở thế kỉ XVIII. Bà nổi tiếng nhất với tác phẩm A Vindication of the Rights of Women (1792) trong đó bà chứng minh rằng phụ nữ không phải tự nhiên thấp kém hơn đàn ông mà bởi sự giáo dục. https://plato.stanford.edu/entries/wollstonecraft/

[4] Samuel Enoch Stumpf and Donald C. Abel, Elements of Philosophy, Lưu Văn Hy dịch (HCM: Tổng Hợp TPHCM, 2004), 415.

[5] Simone de Beauvior (1908-1986):  là một nhà vănnhà triết học và một nhà đấu tranh cho nữ quyền người Pháp. Bà được biết đến với tác phẩm La deuxieme sexe, một tác phẩm phân tích về áp bức phụ nữ và bình đẳng giới. https://plato.stanford.edu/entries/beauvoir/

[6] Simone de Beauvoir, The Second Sex, trans. C. Borde and S. Malovany Chevallier (New York: Vintage, 2010), 14.One is not born, but rather becomes, woman”

[7] Cailin O’Connor, Sanford Goldberg, and Alvin Goldman. “Social Epistemology.” The Stanford Encyclopedia of Philosophy (Winter 2023 Edition), Edward N. Zalta & Uri Nodelman (eds.). https://plato.stanford.edu/entries/epistemology-social/

[8] Margaret Mead, Sex and Temperament in Three Primitive Societies (Harper Perennial, 1971), 310-322.

[9] Samuel Enoch Stumpf, Lịch Sử Triết Học và các Luận Đề (HN: Lao Động, 2004), 572.

[10] Lý thuyết Queer: nhấn mạnh đến việc không chỉ phân biệt giới tính thành hai loại (nam và nữ) và thay vào đó là một khái niệm đa dạng gồm cả dị tính. Nó tập trung vào việc nghiên cứu và hiểu các vấn đề liên quan đến tính dục, cảm xúc và các hành vi xã hội của từng giới. https://en.wikipedia.org/wiki/Queer_theory

[11] Carol Gilligan (1936): là một nhà nữ quyền, nhà đạo đức học và nhà tâm lý học người Mỹ, nổi tiếng với công trình nghiên cứu về đạo đức học và các mối quan hệ đạo đức. Bà được biết đến với cuốn sách In a Different Voice (1982) phê phán các giai đoạn đạo đức của Kohlberg. https://en.wikipedia.org/wiki/Carol_Gilligan

[12] Carol Gilligan, In a different voice, (Harvard University Press, 1982), 24.

[13] Đạo đức chăm sóc: học thuyết đạo đức xã hội, quan tâm đến cách đối xử và chăm sóc người khác. Nó nhấn mạnh vai trò của lòng nhân ái, sự đồng cảm và trách nhiệm đối với quyền lợi và sự hạnh phúc của con người. https://iep.utm.edu/care-ethics/

Nguồn tin: https://sjjs.edu.vn/
Thống kê
Số người online: 425
Tổng số truy cập:20.895.577