“Thấy Và Tin ”
(Cv 10,34a.37-43; Tv 117; Cl 3,1-4; Ga 20,1-9)
Chúa đã sống lại. Alleluia! Cả Giáo hội hân hoan xướng lên lời ngợi khen. Đó là Tin mừng trọng đại, là niềm hy vọng hồng phúc của toàn cõi địa cầu. “Alleluia! Alleluia! Đức Kitô đã chịu hiến tế, làm Chiên vượt qua của chúng ta. Nào ta hãy hoan hỷ trong Chúa mà ăn mừng đại lễ. Alleluia!” (Tiền xướng Tin mừng). Tin mừng phục sinh mạc khải chung cuộc của hiện hữu chúng ta, ánh sáng dọi chiếu cuộc kiếm tìm của chúng ta. Nơi Đức Giêsu Kitô, Thương khó và Phục sinh, chúng ta “thấy và tin”.
1. Những bước chân rong ruồi tìm kiếm Thiên Chúa
Câu chuyện Tin mừng hôm nay diễn tả tâm thái của những người mến yêu và khao khát tìm kiếm Chúa ngay từ rạng đông, sáng sớm: “Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Maria Macdala đi đến mộ” (Ga 20,1). Hai môn đệ thân tín của Chúa Giêsu, Phêrô và Gioan “cùng chạy” nhanh ra mộ. Cuộc kiếm tìm của những người khát vọng chân lý, kiếm tìm sự tương ngộ. Cuộc băng mình ra khỏi ảm đảm sợ hãi và thất vọng, giẫm trên chốn thây ma của buổi sáng sớm tìm gặp Đấng mình mến yêu. Chính ánh sánh toả lan từ niềm khát khao tìm kiếm Chúa, nhất là ánh sáng đức tin dẫn bước họ tiến bước và đăng trình trong hành trình này, đức tin vào Thiên Chúa, vào Chúa Giêsu Kitô. Đức Phanxicô dạy trong Thông điệp Lumen fidei:
Ánh sáng của đức tin vào Chúa Giêsu cũng là con đường của tất cả những ai tìm kiếm Thiên Chúa, và cung cấp sự đóng góp cụ thể của Kitô giáo trong cuộc đối thoại với những người theo các tôn giáo khác nhau. Thư gửi tín hữu Do thái nói cho chúng ta về chứng từ của những người công chính, là những người đã tìm kiếm Thiên Chúa bằng đức tin, trước khi có Giao ước với ông Abraham. Về ông Enoch, Thư nói rằng “ông đã được chứng giám là đẹp lòng Thiên Chúa” (Dt 11,5), là điều không thể được nếu không có đức tin, bởi vì “ai đến gần Thiên Chúa thì phải tin là Người hiện hữu và Người thưởng công những ai tìm kiếm Người” (n. 5).
Chính cuộc hành trình trong nỗi khắc khoải tìm kiếm sẽ dẫn họ tới đích điểm với sự ngạc nhiên. Hình ảnh của cuộc tìm kiếm này có thể được tìm thấy nơi các nhà đạo sĩ, được hướng dẫn bởi ngôi sao đến tận Bethlehem (x. Mt 2,1-12). Đối với họ, ánh sáng của Thiên Chúa tỏ lộ như con đường, như ngôi sao hướng dẫn họ trên một con đường khám phá dài. Ngôi sao cũng nói lên sự kiên nhẫn của Thiên Chúa với đôi mắt của chúng ta, cần phải trở nên quen thuộc với sự rạng ngời của Người. Con người tôn giáo đang trên đường đi và sẵn sàng để cho mình được hướng dẫn, ra khỏi nhà để tìm thấy Thiên Chúa, Đấng luôn đợi chờ và mang tới sự bất ngờ lơn. Thánh Irenée kể lại rằng ông Abraham, trước khi lắng nghe tiếng nói của Thiên Chúa, đã tìm Người bằng “một ao ước mãnh liệt của linh hồn” và “ông chạy khắp trái đất tìm xem Thiên Chúa ở đâu” cho đến khi “Thiên Chúa thương xót ông, là người một mình đã tìm Người trong thinh lặng”. Bất cứ ai bắt đầu con đường làm việc lành cho tha nhân thì đã được gần Thiên Chúa rồi, được nâng đỡ bởi Người, bởi vì nó là đặc trưng của sự năng động của ánh sáng thần linh để thắp sáng đôi mắt khi chúng ta bước đi về phía sự viên mãn của tình yêu.
Lời tuyên xưng của Kitô giáo về Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu độ duy nhất, xác nhận rằng tất cả ánh sáng của Thiên Chúa được tập trung trong Người, trong “cuộc đời đầy ánh sáng” của Người, Đấng tỏ lộ khởi thủy và cứu cánh của lịch sử. Không có kinh nghiệm nào hay con đường nào của con người hướng về Thiên Chúa, mà không thể được đón nhận, thanh lọc và soi sáng bởi ánh sáng này. Một Kitô hữu càng đắm chìm trong vòng được mở ra bởi ánh sáng của Đức Kitô, thì càng có khả năng hiểu và đi cùng con đường của tất cả mọi người người về phía Thiên Chúa (Lumen fidei, 5).
2. “Tìm thấy”
Hành trình đức tin của các Tông đồ, của Hội thánh, của từng người chúng ta, đi từ niềm khát khao tới việc được giáp mặt của việc tìm kiếm và tìm thấy. Các chứng nhân phục sinh là những người đã nhìn thấy Đấng phục sinh, tìm thấy nguồn hy vọng. Biến cố Phục sinh là nền tảng của toàn bộ toà nhà đức tin của Hội thánh. Thánh Phaolô minh chứng:
Trước hết tôi truyền lại cho anh em điều mà chính tôi đã lãnh nhận, đó là: Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta đúng như lời Kinh thánh, rồi Người đã được mai táng, và ngày thứ ba đã sống lại, đúng như lời Kinh thánh. Người đã hiện ra với ông Kêpha, rồi với nhóm Mười Hai (1Cr 15,3-4).
Hai yếu tố chứng thực điều các ông tìm thấy và tuyên nhận dữ kiện nền tảng của toàn bộ nhân sinh: ngôi mộ trống và những lần hiện ra với các chứng nhân.
Ngôi mộ trống: Dấu chứng đầu tiên chứng thực việc Đức Giêsu Phục sinh, Giáo lý khẳng định:
Trong các biến cố vượt qua, yếu tố đầu tiên mà ta bắt gặp là ngôi mộ trống. Tự nó, điều này không phải là bằng chứng trực tiếp. Việc thân thể Đức Kitô không còn trong mộ có thể được giải thích cách khác. Dầu vậy, ngôi mộ trống vẫn là một dấu chỉ căn bản đối với mọi người. Việc phát hiện ngôi mộ trống là bước đầu tiên dẫn các môn đệ đến việc nhìn nhận chính sự kiện Phục sinh. Trước hết đó là trường hợp của các phụ nữ thánh thiện, rồi đến ông Phêrô. Người môn đệ “Đức Giêsu thương mến” (Ga 20,2), khi vào trong mộ và thấy “những băng vải để ở đó” (Ga 20,6), khẳng định ông đã “thấy và tin”. Điều này giả thiết rằng khi thấy ngôi mộ trống, ông đã nhận ra rằng việc thân thể Đức Giêsu không còn đó không phải là một việc do người phàm và Đức Giêsu đã không đơn thuần trỏ lại cuộc sống trần thế như trường hợp của Lazaro (GLHTCG 640).
Những lần hiện ra: Tin mừng Phục sinh, nền tảng của đức tin và toàn bộ hiện hữu của chúng ta được chứng thực bởi các chứng nhân, những người đã thấy Chúa sống lại. Bà Maria Macdala và những phụ nữ thánh thiện là những người đầu tiên gặp Đấng Phục Sinh. Sau đó, Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ thân tín, trước hết là với Phêrô, người được kêu gọi để “củng cố đức tin của các anh em mình” (Lc 23,32) đã thấy Đấng Phục Sinh trước anh em mình và dựa trên chứng từ của ông mà cộng đoàn Hội thánh tuyên nhận: “Chúa đã sống lại thật rồi, và đã hiện ra với ông Simon” (Lc 24,34).
Như vậy, các Tông đồ, đại diện cho toàn Hội thánh và rộng hơn, cả nhân loại nhận ra điều căn bản của toàn bộ nhân sinh: tuyên xưng mầu nhiệm Phục sinh, đá tảng của toàn bộ lịch sử nhân loại. Họ bắt đầu xây dựng một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của niềm hy vọng hồng phúc.
3. Tin
Các chứng nhân phục sinh là đá tảng của toàn bộ toà nhà Hội thánh. Tông đồ Dân ngoại thâm tín:
Nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng.[…]. Mà nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy, thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em. […]. Nhưng không phải thế! Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu (1Cr 15,14.17.20).
Đức tin của cộng đoàn tiên khởi được xây dựng trên lời chứng của những con người cụ thể mà các Kitô hữu quen biết và phần đông lúc đó còn sống giữa họ. “Những chứng nhân về cuộc phục sinh của Đức Kitô, trươc hết là ông Phêrô và Nhóm Mười Hai, nhưng không chỉ có các vị ấy, Phêrô nói tới hơn năm trăm người đã được Chúa Giêsu hiện ra một lượt, rồi với ông Giacôbê và tất cả các Tông đồ (x. 1Cr 154-8). Kinh nghiệm về sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô là một ơn mà Người ban cho cách chứng nhân, giúp họ được “mở mắt”, “khai trí”, “mở lòng” để có thể nhận ra và loan báo về Đấng phục sinh. Đó là Tin mừng trọng đại, là nền tảng của toàn bộ tòa nhà Đức tin, là trọng tâm của mọi lời loan báo của Hội thánh. Thánh Phêrô đã trịnh trọng loan báo lời Tin mừng cứu độ mà chúng ta nghe trong bài đọc thứ nhất:
Quý vị biết rõ: Đức Giêsu… Chúng tôi đây xin làm chứng về mọi việc Người làm trong cả vùng dân Do thái và tại chính Giêrusalem. Họ đã treo Người lên cây gỗ mà giết đi. Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã cho Người trỗi dậy, và cho người xuất hiện tỏ tường, không phải trước mặt toàn dân, nhưng trước những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn từ trước, là chúng tôi, những kẻ được cùng ăn cùng uống với Người, sau Người từ cõi chết sống lại (Cv 10,38-41).
Đức Ratzinger khẳng định: “Tình yêu tạo nên sự bất tử, và bất tử chỉ xuất phát từ tình yêu. Đó là khẳng định mà chúng ta đã đạt tới, và điều này cũng có nghĩa: Đấng đã yêu thương vì mọi người thì cũng đặt nền tảng cho sự bất tử của tất cả. Đây cũng chính là ý nghĩa của lời Kinh thánh: Sự phục sinh của Người là sự sống của chúng ta (x. 1Cr 15,16t). Đây là khẳng định cốt yếu, là nền tảng của đức tin và hiện hữu chúng ta.[1]
Chỉ có tình yêu của Đức Kitô, một tình yêu hiệp nhất với sức mạnh của sự sống, sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa mới có thể đem lại sự bất tử cho chúng ta. Thánh Phaolô trong bài đọc thứ hai chỉ cho chúng ta cách thức để sống niềm tin phục sinh của Đức Kitô vốn đang tiềm tàng nơi chúng ta:
Anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới (Cl 3,1-3).
‘Trỗi dậy cùng với Đức Kitô’ chính là hướng lòng trí về và tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nghĩa là giết chết con người cũ để mạc lấy con người mới trong Đức Kitô. Tông đồ dân ngoại khuyên nhủ tước “bỏ con người cũ với nếp sống xưa, con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối” (Ep 4,22) và “hành vi của nó” (Cl 3,9), đồng thời phải “để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc ‘lấy con người mới’, là con người được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa, để thật sự sống công chính và thánh thiện” (Ep 2,23-24) – “Con người mới hằng được đổi mới theo hình ảnh Đấng Tạo Hóa” (Cl 3,10).
Lm. Hoa Thập Tự