“Sỏi Đá Cũng Cần Có Nhau” Và Đời Độc Thân Linh Mục

Fri,27/11/2020
Lượt xem: 1889

Giám mục Louis Nguyễn Anh Tuấn

Đây là loạt bảy bài hướng dẫn thiêng liêng Tuần Tĩnh tâm Hàng Giáo sĩ Giáo phận Ban Mê Thuột từ ngày 09.11.2020 đến 13.11.2020, của Đức Cha Louis Nguyễn Anh Tuấn - Giám mục Phụ tá TGP Sài Gòn.

Bài 1 – Tất cả đều có đôi

Bài 2 – Tính dục mầu nhiệm
Tại sao lại có sự khác biệt nam nữ ấy? Ý nghĩa của sự dị biệt giới tính là gì?
Tính dục: một cơ hội để tương quan
Dị biệt tính dục mở ra với truyền sinh (dị biệt thế hệ)
Sự dị biệt nam-nữ là mầu nhiệm khôn dò
Ý nghĩa của hành vi phu thê

Bài 3 – Khám phá lại thân xác
Thân xác con người có tính biểu tượng
Thân xác có “ý nghĩa hợp hôn”
Thân xác con người có tự do nhưng trong tình trạng yếu đuối vì sa ngã
Nhưng thân xác con ngươi đã được Đức Kitô cứu chuộc

Bài 4 – Độc thân như một đề nghị từ Tin Mừng
Đọc 1Cr 7, 32-38
Một đặc sủng biệt lệ
Vì Nước Trời
Để cứu vớt đời sống tinh dục
Dấu hiệu sự hiện diện của Đức Vua
Hướng đến sự độc thân linh mục

Bài 5 – Độc thân như một dấn thân của đời linh mục
Đức Kitô Tân Lang
Ý nghĩa hôn phối của Đức Kitô
Linh mục, bí tích của Đức Kitô Hôn Phu
Những điều kiện của sự trung thành

Bài 6 – Mẻ lưới rỗng và mẻ lưới đầy
Cần một lý tưởng
Sự hiệp thông Hội thánh là điều quan trọng
Chiếc lưới không rách
Chúa Kitô hiện diện trong Hội Thánh

Bài 7 – Chỉ tình yêu của Đức Kitô thúc bách.
Tình yêu thống hối của Phêrô
Sứ vụ mục tử của Phêrô
Vai trò tối thượng của Phêrô

* * *

Bài 1 – Tất cả đều có đôi

“Tất cả đều có đôi, cái này đối cái kia; / Người không làm gì dang dở./ Vật này làm tôn vẻ đẹp của vật kia, / nhìn ngắm vinh quang của Người, ai mà chán được?” (Hc 42, 24-25).

“Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta” (St 1, 26).

Ađam được tạo dựng theo hình ảnh Đức Kitô vì Người là hình ảnh của Chúa Cha: “Người là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo” (Cl 1, 15).

“Mầu nhiệm con người chỉ thật sự sáng tỏ trong mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể. Thật vậy, Ađam, con người đầu tiên, chính là hình ảnh của Đấng sẽ đến là Chúa Kitô” (CĐ Vaticanô II, Heh. Gaudium et spes, 22).

“Thiên Chúa chúc lành cho họ, và Thiên Chúa phán với họ: “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất và thống trị mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển chim trời” (St 1, 28).

Con người được Thiên Chúa tạo dựng bước vào thế giới, tỏ lộ nơi hữu thể mình Thiên Chúa Tạo Hóa là Tặng phẩm trao hiến, và hơn thế nữa con người còn có vai trò hiện hữu như một tặng phẩm trao hiến, trước hết vì họ mang trong bản thể mình chỉ dấu của tặng phẩm, và kế đến vì họ chỉ đạt đến sự hoàn hảo qua sự tự hiến.

“Rồi Đức Chúa là Thiên Chúa trồng một vườn cây ở Êđen, về phía đông và đặt vào đó con người do chính mình nặn ra (St 2, 8).

Dẫu được ban tặng thế giới và muôn loài để làm chủ, con người vẫn không thỏa mãn trọn vẹn, vẫn còn cảm thấy “đơn độc” vì chưa thực hiện được sự trao hiến tương hỗ. Con người vốn được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa, là một “Chúng ta”, làm sao lại có thể sống đơn độc trong vườn Êđen? Con người không thấy có cái gì hay một ai đó tương xứng khả dĩ để sống bổ túc cho nhau. Đó là “sự đơn độc nguyên thủy”.

“Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ” (St 1, 27).

Sau giai đoạn trù bị Ađam đơn độc trong vườn, Thiên Chúa tiếp tục công trình tạo dựng của Ngài và nói: “Con người ở một mình thì không tốt. Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó” (St 2, 18). Hình ảnh Thiên Chúa phản chiếu trên dung mạo Ađam giờ đây phải được hoàn thiện nhờ một tương quan khác mới mẻ với một ngã vị vừa miệng như nó nhưng khác với nó.

“Thiên Chúa lấy chiếc xương sườn đã rút từ con ngươi ra làm thành người đàn bà” (St 2, 22).

“Thiên Chúa cho một giấc ngủ mê ập xuống trên con người” (St 2, 21). Ađam rơi vào giấc ngủ mê man như hóa thành hư vô trong tình trạng hôn mê sâu để Thiên Chúa hành động như một bác sĩ phẫu thuật (sau khi đã hành động như một thợ gốm) rút một chiếc xương sườn (selâ) ra làm thành một người giống như ông nhưng khác ông. Hành vi tạo dựng là hành động thuộc riêng Thiên Chúa. Việc tạo dựng người đàn bà là hoàn toàn khuất mắt Ađam. Nếu Ađam có thể kiểm soát và thống trị các loài vật qua việc “đặt tên” cho chúng, điều đó hoàn toàn ông không thể làm đối với người đàn bà.

Thiên Chúa “làm” thành (banâ) người đàn bà. Chữ banâ theo Kinh thánh có nghĩa “xây dựng”, “làm ra”, “làm cho hiện hữu”, “tạo ra”. Chữ có nghĩa kiến trúc, xây dựng. Đối với người đàn bà, làm ra ở đây có nghĩa là sinh ra. Nếu đàn ông “xây dựng” nhà cửa, thành trì, đền thờ, vườn nho,... thì phụ nữ xây dựng bằng cách sinh thành các công dân cư ngụ, làm việc, sinh sống ở đó Đàn ông xây bằng sức mạnh cơ bắp của tay chân, đàn bà xây dựng bằng bụng dạ sinh dưỡng.

Chúa tạo thành người đàn bà từ một chất liệu mạnh mẽ - xương sườn người đàn ông - đứng thẳng, mạnh mẽ trước người đàn ông, có khả năng làm trợ thủ (‘ezer) cho ông; đàng khác, nếu người đàn bà được dựng nên để sinh sản, thì phải hiện diện với ông trong một quan hệ diện đối diện để có thể tự hiến và đón nhận chàng (kenegdô). Để có thể thực hiện một quan hệ như thế, cần phải có một can thiệp có tính quyết định của Thiên Chúa Tạo Hóa trên cấu trúc cơ thể người đàn bà. Thật vậy, người đàn bà là kẻ duy nhất, trong số tất cả các động vật hữu nhũ, có thể đứng trước mặt người đàn ông trong mối quan hệ diện đối diện cho phép sống thân mật trao hiến và lãnh nhận như thế và có khả năng “sáng tạo” qua việc sinh sản.

“Thiên Chúa dẫn người đàn bà đến với con người” (St 2, 22).

Chữ “dẫn” (bw) ở đây mang ý nghĩa hôn phối: chính Thiên Chúa dẫn người đàn bà đến trao cho cho con người, như người cha dẫn cô dâu con gái đến trao vào tay chú rể hôn phu tương lai của nàng, trong ngày tân hôn. Người con gái được dẫn đến trước mặt Ađam là chi nếu không phải là một người nữ như là quà tặng ban cho chàng? Nàng là “quà tặng” (present/gift) trao trước mặt” (presence) người đàn ông. Tiếng “này, em đây” được thốt lên rất nữ tính ấy sau cùng đã cất nỗi cô đơn khỏi con người đàn ông của chàng. Từ cuộc hạnh ngộ với người phụ nữ, con người không còn sống chỉ để làm việc mà còn để yêu.

“Đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi” (St 2, 23). Tiếng reo mừng một đàng nêu bật “căn tính” chung của hai người, nghĩa là nền tảng của mối quan hệ nam-nữ dị biệt; đàng khác cho thấy hai hình thái nhập thể của một nhân tính duy nhất, đàn ông và đàn bà: “Nàng sẽ được gọi là đàn bà, vì đã được rút ra từ đàn ông” (St 2, 23). Tiếng Hipri tỏ lộ căn tính và dị biệt này nơi trò chơi chữ nghĩa, ‘is và ‘issâh. Chữ ‘is có những nghĩa như là nhân bản, con người, người chồng; còn chữ ‘issha có nghĩa là đàn bà, người vợ. Khi người đàn bà xuất hiện con người đầu tiên Ađam trở thành người đàn ông hay chồng - ‘is - của người đàn bà hay người vợ - ‘issha.

Cuộc gặp gỡ này đã khai sinh con người một lần nữa, bằng cách chuyển trao con người từ tình trạng “đơn độc nguyên thủy” sang tình trạng “hợp nhất nguyên thủy”. Đó là cuộc sáng tạo con người dứt khoát.

Người đàn bà mà Chúa dẫn đến và giới thiệu với con người là “trợ tá tương xứng” của người đàn ông (St 2, 18).

“Bởi thế người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt (St 2, 24).

“Sự trao hiến cho nhau, với toàn thể nhân tính tức là với cả xác-hồn và giới tính khác biệt của họ, được thực hiện qua hành vi tự hiến và đón nhận tha nhân như tặng phẩm trao ban. Hai chức năng này của sự trao đổi hỗ tương kết nối với nhau thật sâu xa: Hành động trao ban và đón nhận thâm nhập sâu vào nhau đến độ chính khi cho là nhận, và nhận trở thành là cho đi”. Bởi thế, chính khi tự hiến và đón nhận lẫn nhau người nam và người nữ từng gặp lại chính mình và bước vào ơn gọi hôn nhân cao trọng của họ. Ngược lại, nếu vì một lí do bất kì nào đó ngăn chặn sự trao hiến này họ sẽ đánh mất chính mình và rơi vào vực thẳm vô nghĩa, chống lại ơn gọi làm người.

Kết luận: Đối chiếu hai quan niệm nhân học: androgyno và Thánh Kinh.

Quan niệm androgyno có hai đầu mối trung tâm: chối bỏ sự dị biệt tính dục, xem đó như một án phạt; và ước muốn quay trở về với hiện hữu nguyên thủy để chiếm hữu lại được sức mạnh thuở ban đầu. Về điểm thứ nhất, khát khao một tình yêu đầy xúc cảm được thể hiện không nhờ đến sự dị biệt tính dục, vì dựa trên nền tảng phi-dị-biệt và, thay vì cởi mở ra thì khép kín mình lại. Về điểm thứ hai, đàng sau cuộc tìm kiếm để hòa tan lại làm một hữu thể duy nhất, ẩn tàng một cám dỗ chiếm hữu lại quyền năng như các vị thần thánh.

Quan niệm nhân học androgyno lan tràn trong văn hóa hiện nay đang gieo vãi khắp nơi tư tưởng bất phân biệt giới tính hay chỉ có một giới duy nhất thôi. Đó là một tham vọng Promêtê, tức là ước muốn trở thành một toàn thể toàn năng “như” Thượng đế và cạnh tranh với Thượng đế, như androgyno cạnh tranh với các vị thần. Quan niệm này quả thật không thực tế vì có hậu kết bi thảm, chết chóc.

Trái lại, quan niệm nhân học của Thánh Kinh có một năng động sâu sắc: tặng phẩm trao hiến.

Mỗi thụ tạo khi bước vào hiện hữu mang một dấu ấn sự hữu hạn biểu lộ Tặng Phẩm nguyên thủy và mang trên mình ý nghĩa tặng phẩm ấy đến mức họ chỉ tìm gặp lại được mình khi tự hiến. Con người được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa, chỉ dấu tuyệt vời của tặng phẩm trao hiến, đúng hơn con người là bí tích biểu lộ cách hữu hình sự sống vô hình là chính Thiên Chúa - Tặng Phẩm. Con người mạng tặng phẩm trong toàn thể ngã vị mình, khám phá ra tặng phẩm ấy trong các ý nghĩa của thân xác vốn có phân giới tính nam - nữ của mình và nơi chủ thể tính của nó. Con người thực hiện sự trao hiến ấy theo hai cách thức.

Trước hết là đảm lấy trách nhiệm của mình trước thọ tạo, nhưng nên hết là trao hiến hoàn toàn và trung tín với người phụ nữ, trợ tá “tương xứng” đứng “trước mặt” ông. Thánh Kinh nhìn thấy thân phận thụ tạo giới hạn bởi dị biệt tính dục, tức là hai hình thức nhập thể của bản tính duy nhất nơi con người, nam tính và nữ tính, là cơ hội của một cuộc gặp gỡ, một quan hệ, để đào sâu căn tính và ơn gọi, một sự trao hiến bản thân để nên một xương một thịt và rồi mở ra với sự sống con cái, một tương lai hứa hẹn chiến thắng.


Bài 2 – Tính dục mầu nhiệm

Con người được tạo dựng có nam có nữ. Hai người khác giới nhưng cùng là một bản tính người. Nhân tính họ có chung ấy là căn tính (identity) của con người. Còn giới tính nam và nữ khác biệt là dị biệt tính (difference). Họ có chung một căn cước lưỡng tính được biểu lộ ra là một người nam hoặc một người nữ.

Tại sao lại có sự khác biệt nam nữ ấy? Ý nghĩa của sự dị biệt giới tính là gì?

Giới tính làm nên sự khác biệt. Giới tính tạo nên một giới hạn trong bản tính nhân loại vốn luôn luôn và chỉ tồn tại trong tư cách như là một người nam (giống đực) hoặc như là một người nữ (giống cái). Giới tính khác biệt này thâm nhập khắp thân xác đến tận cùng các tế bào. Cha mẹ góp phần di truyền cho con từ trong thai mẫu đã xác định thai nhi là nam hay nữ.

Dị biệt giới tính là một giới hạn của con người, thuộc thân phận của con người, đó là một hoàn cảnh đặc thù của tình trạng thụ. Thế nhưng sự giới hạn ấy có ích cho con người vì buộc nó phải cởi mở ra trong tương giao phụ thuộc để đón nhận cái mình còn thiếu và được bổ túc cho phong phú. Người nam và người nữ tìm kiếm nhau để gặp nhau, hiến thân cho nhau và kết hợp nên một mầu nhiệm khôn thấu.

Chính sự giới hạn bởi dị biệt giới tính này làm nổi bật hình ảnh của Thiên Chúa trong mối quan hệ nam-nữ. Chính nó khiến cho người nam và người nữ có thể phản chiếu imago Dei: “Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình [...]. Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ (St 1, 27).

Tính dục: một cơ hội để tương quan

Giới tính phân li hai con người nam và nữ khác biệt và đánh dấu sự dị biệt tính dục. Thế nhưng, họ không tồn tại để mà chia li và sống đơn độc, điều đó trái nghịch với ý nghĩa của thân phận thụ tạo của họ. Sự giới hạn đặc trưng của họ bộc lộ một sự khiếm khuyết cần được lấp đầy, đó là tha nhân, một con người khác.

Làm thế nào để lấp đầy khoảng trống này? Phải có một quan hệ khả dĩ giúp họ vượt qua được nỗi cô đơn của mỗi người như thế nào đó để họ gần gũi, lôi cuốn, chinh phục, yêu thương, dâng hiến và kết hợp nên một với nhau. Tính dục - qui định bởi giới tính - liên quan trước hết đến cấu hình thể xác của một nhân vị, là nam hay nữ và từ đó liên hệ đến chức năng của thân xác ấy như khả năng tương quan và dâng hiến cho nhau đến mức tạo ra sự sống.

Tính dục khởi đi từ thân xác có phân giới giúp con người cởi mở bước vào những quan hệ phong phú. Tính dục làm cho quan hệ thêm phong phú nên nó có chức năng xã hội hóa. Trong mối quan hệ đôi bạn đặc thù nam-nữ tính dục được diễn tả mạnh mẽ nhất khi, chạm tới con người thâm sâu nhất qua tiếp xúc sinh dục, tính dục nhấn con người ngập vào một quan hệ yêu thương trao hiến mở ra với sự sống mới. Sự hữu hạn được vượt qua nhờ có tính dục, nó giúp người này mở ra sống vì người kia, trong sự trao hiến bổ túc tương hỗ cho nhau. Người ta chỉ là chính mình khi người này hiện hữu vì người kia.

Mầu nhiệm hôn phối rất linh thiêng. Chính trong sự kết hợp cả xác hồn mà người nam và người nữ tái tạo trong trật tự tạo thành hình ảnh của Thiên Chúa: una caro phản chiếu Thiên Chúa duy nhất.

Dị biệt tính dục mở ra với truyền sinh (dị biệt thế hệ)

Nhờ tính dục phong nhiêu, quan hệ hôn phối mở rộng ra với một mối quan hệ sau cùng, là con cái. Tính dục mở ra với sự sống. Tặng phẩm sự sống được tích hợp trong tặng phẩm người nam trao hiến cho người nữ, và ngược lại. Có thể nói đó là tặng phẩm ở trong một tặng phẩm. Bởi thế, tính dục cho phép hai sự dị biệt đan dệt vào nhau, đó là: dị biệt tính dục và dị biệt thế hệ (do truyền sinh).

Những sự dị biệt bện thắt vào nhau này, bấy giờ, cho phép các thế hệ xuất hiện theo từng chu kì nối tiếp nhau và nối dài trong thời gian, qua việc hồi phục và khắc ghi trong thân xác sinh linh mới tượng thai dấu ấn dị biệt và giới hạn của giới tính, để rồi, tính dục xét như là quan hệ lại có thể kết hợp hai con người mới và, như thế là mở rộng trong không gian và thời gian cái thực thể một xương một thịt (una caro) này như là hình ảnh của Thiên Chúa (imago Dei).

Quan hệ tính dục khác biệt có tính bổ túc, tương hỗ, giao thoa và không cân đối.
Khác biệt tính dục không để cho họ yên ổn, mà khuấy động xuyên suốt bên trong và cả bên ngoài con người ta. Bên trong, vì chúng ghi sâu trong hữu thể họ sự trống không vì khiếm khuyết tha nhân; bên ngoài, vì sự khuyết thiết này phóng họ đi ra khỏi bản thân để đi đến với tha nhân. Vận động do khác biệt và tìm lại được sự thống nhất có những đặc tính sau đây: bổ túc, tương hỗ, giao thoa và không cân (lệch).

Sự dị biệt nam-nữ là mầu nhiệm khôn dò

Sự dị biệt tính dục nam-nữ không những là khác biệt nhau, nhưng còn là một bí ẩn, là một mầu nhiệm. Mầu nhiệm khôn dò.

Con người mỏng manh nhưng vinh dự là một “mầu nhiệm”. Linh hồn hợp nhất trong một thân xác giới hạn bởi giới tính được tạo dựng giăng mở trước vô biên để có thể đón nhận Thiên Chúa (capax Dei). Đàng sau xác thịt yếu đuối nhưng sinh động kia ẩn tàng một mầu nhiệm là con người, nhân vị. Con người là mầu nhiệm, không ai có thể “chiếm hữu” được ngoại trừ Đấng Tạo Dựng. Trình thuật Thánh Kinh đã khẳng định điều ấy. Vào lúc tạo dựng người đàn bà, Ađam hoàn toàn không ý thức, ông rơi vào một giấc ngủ sâu khi Thiên Chúa rút chiếc xương sườn của ông ra và tạo thành người đàn bà, tha nhân phối ngẫu của ông. Ông không hiện diện khi Chúa tạo dựng người đàn bà là bằng chứng dù thế nào ông cũng không thể “sở hữu” nàng. Lí do đầu tiên bởi đó dị biệt tính dục là khôn dò hệ tại ở sự nhân vị tự thân là mầu nhiệm.

Sự khôn dò của dị biệt tính dục còn có gốc rễ sâu xa hơn nằm ở nơi mối quan hệ giữa hai nhân vị khác giới này. Người đàn bà đứng, trước người đàn ông như là một “tha nhân rất khác lạ” và người đàn ông đứng trước người đàn bà cũng như thế. Khác lạ tới mức, mỗi người hiện hữu trước người kia như là “một lục địa bí ẩn”. Một đàng tha nhân khiến ta e ngại đến e sợ vì có vẻ huyền bí khác với ta, đàng khác khiến ta quan tâm, tò mò, bị lôi cuốn đến độ muốn chiếm hữu và yêu mến vì chính sự khác biệt huyền bí ấy. Dị biệt tính dục khôn dò như thế đã được Thánh Kinh dùng như ẩn dụ chỉ quan hệ của Thiên Chúa với con người.

Sau cùng, dị biệt tính dục không thể diễn tả được và được phủ vây trong thinh lặng. Nhưng dị biệt lính dục mầu nhiệm không cản trở họ quan hệ, đúng hơn có vẻ như nó còn kiến tạo nên quan hệ ấy, như thể mầu nhiệm nhân vị như là “tha nhân rất khác lạ” còn kích thích tìm kiếm tha nhân hơn nữa.

Ý nghĩa của hành vi phu thê

Cấu trúc hành vi thân mật của vợ chồng xem ra bao gồm hết cả mọi yếu tố ghi dấu sự dị biệt tính dục. Trong hành vi vợ chồng vốn có tính bổ túc vừa tương hỗ vừa giao thoa, hai người giới tính khác biệt nhau - một nam một nữ - với thân xác và nhờ thân xác có phân giới của họ, mà họ gặp lại được mình trên cơ sở cùng một bản tính nhân loại trong tình yêu thương phu thê hiệp nhất. Người phụ nữ được phú ban cho người đàn ông nhân danh Chúa, là chứng tá của sự khác biệt giới tính và là “Em” một đối tác đến trước “Tôi” và mạc khải cái bản ngã đàn ông ấy cho “Tôi”. Ngược lại, người đàn ông với sáng kiến và tặng phẩm tính dục của mình, xác nhận người nữ trong ơn gọi nữ giới của nàng. Tuy nhiên, cho dù vợ chồng kết hợp thật thâm sâu, họ vẫn còn và mãi là một mầu nhiệm khôn dò đối với nhau.

Cấu trúc hữu thể của hành vi vợ chồng không chỉ giới hạn trong ý nghĩa ‘kết hợp’ (unitive) nhưng còn mở ra với ý nghĩa ‘truyền sinh’ (procreative). Chính người cha - cùng với người mẹ - ghi dấu giới tính cho đứa con sắp chào đời. Sự khác biệt không cân đối giữa hai giới tính nam-nữ đã chừa một không gian kết cấu ngay trong lòng sự kết hợp thâm sâu của họ. Sự trao hiến hôn phối trở thành nguồn gốc của tặng phẩm sự sống được lưu truyền. Như thế, hành vi vợ chồng là bản lề dựa trên đó hai con người khác giới gặp gỡ nhau.

Như thế, ta thấy hành vi vợ chồng rất là quan trọng và cơ bản. Nó là nền tảng cho hai sự dị biệt, và từ đó, cho cả đôi bạn, gia đình, xã hội, và toàn thể nhân loại. Hành vi vợ chồng là nền tảng thiết yếu bảo đảm cho người nam và người nữ kết hợp trong hôn phối nên một xương một thịt, tiếp tục phản chiếu hình ảnh của Thiên Chúa (imago Dei).


Bài 3 – Khám phá lại thân xác

Cái nhìn về vẻ đẹp của thân xác biểu lộ một chiều sâu vô cùng diệu vợi hơn nhiều. Đức Gioan-Phaolô II, được mệnh danh là nhà cách mạng tính dục làm đảo lại cuộc “cách mạng tình dục” thế kỷ vừa qua, đổi hướng qui thân xác con người về Nguồn cội và Cùng đích của nó. Ngài nói: “Thân xác và chỉ có thân xác, mới có khả năng làm cho những gì là vô hình, thiêng liêng và thần linh trở thành hữu hình. Thân xác được tạo dựng để chuyển giao vào thực tại hữu hình của thế giới, mầu nhiệm vô hình được ẩn giấu tự muôn thuở nơi Thiên Chúa, và như thế nó là một dấu chỉ của mầu nhiệm ấy”[1].
Thiên Chúa đã muốn làm cho Mầu nhiệm của Ngài trở nên thấy được đối với chúng ta, nên Ngài đã ghi dấu nó vào trong thân xác chúng ta bằng cách tạo dựng chúng ta có nam có nữ theo hình ảnh của Ngài (St l, 27). Nhiệm vụ của hình ảnh này là phản chiếu Thiên Chúa Ba Ngôi, tức là “sự hiệp thông của các Ngôi vị thần linh khôn dò”[2]. Bởi thế, Đức Giáo hoàng mới kết luận rằng “con người trở thành “hình ảnh và họa ảnh” của Thiên Chúa không chỉ bởi nhân tính của mình nhưng còn nhờ sự hiệp thông các ngôi vị giữa người nam và người nữ ngay từ thuở ban đầu”. Và ngài còn nói thêm: “Ngay từ thuở ban đầu Thiên Chúa đã tuôn đổ phúc lành của phong nhiêu liên hệ tới sự sinh sản trên tất cả những điều đó” (x. St l, 28)[3].

Từ các chương đầu của sách Sáng thế và suy tư thần học về thân xác của đức Giáo hoàng Gioan-Phaolô II cho thấy:

Thân xác con người có tính biểu tượng

- Từ kinh nghiệm đơn độc nguyên thủy, con người nhận thấy mình vừa là thành phần của thế giới tạo thành này vừa vượt lên trên thế giới. Như muôn loài, con người có một thân xác, con người là “xác đất vật hèn”. Nhưng thân xác con người còn có cái gì đó trong ta còn hơn thân xác vật hèn này. Con người là một hữu thể hợp nhất, kết hợp cái hữu hình và cái vô hình. Hai chiều kích thấy được và không thấy được này tồn tại và tạo nên một nhân vị. Thân xác con người là vật mang vác cái vô hình.

Đó chính là vai trò của một biểu tượng, nghĩa là: làm cho cái vô hình hiện diện, trở nên hữu hình. Biểu tượng kết hợp thế giới hữu hình và thế giới vô hình lại thành một thực thể duy nhất.

Nói thân xác con người có tính biểu tượng tức là nói nó có đặc tính đưa trả về thế giới bên kia thân xác. Thân xác thì hữu hình và khía cạnh thể lí và vật chất của nó có một ý nghĩa và một nội dung chắc chắn nào đó. Thân xác vật lí hữu hình của con người hướng đến bờ bến thiêng liêng và vô hình bên kia của nhân vị.

Khi ta nghĩ đến một người bạn, ta không chỉ nghĩ đến thân xác người bạn ấy, mà nghĩ đến chính người ấy, đến cá tính người ấy, đến khả năng trí tuệ tinh thần của người ấy,… Nói cách khác, ta nghĩ đến thực tại thiêng liêng và vô hình của người ấy.

Linh hồn là chiều kích sâu xa nhất của con người, là cái nguyên lí thiêng liêng của con người. Nó là cội nguồn của sự thống nhất hữu thể nơi ta. Nói thân xác con người có tính biểu tượng, có nghĩa là nói có một nguyên lí sự sống trong ngã vị của ta không thấy được Thân xác thì ở trong thời gian và không gian, linh hồn thì ở trong vĩnh cửu. Chúng ta sống trong cả hai thế giới này. Đó là nét đặc thù của riêng chúng ta xét như là con người.

- Ađam không thấy có ai trong vô số loài trong tạo thành của Chúa mà thân xác giống như của mình. Ông không thể tạo lập được giao tiếp xã hội với chúng, mà chỉ có Eva. Cái khác biệt này là một cách khác nữa cho Ađam kinh nghiệm bản tính biểu tượng của xác thân con người. Thân xác các loài vật cũng là thân xác, nhưng chúng không thể là biểu tượng như thân xác của con người vốn làm hiện diện toàn thể ngã vị, cả phần hữu hình lẫn vô hình.

Thân xác có “ý nghĩa hợp hôn”

Ngay khi Ađam nhìn thấy Eva, ông hiểu có cái gì khác biệt ở đây. Một thân xác con người khác đang có đó sẵn sàng thiết lập cùng ông một mối quan hệ thân mật. Nàng là một bổ túc cho ông. Điều đó có nghĩa là họ có thể trở nên “một”.

Thân xác đàn ông và thân xác đàn bà khác biệt nhau. Đàn ông thì cường tráng, có sức vóc mạnh mẽ hơn. Cơ thể phụ nữ thì mỏng manh, mềm yếu hơn. Họ cũng khác biệt về tính dục. Cơ quan sinh dục của đàn ông thì ở ngoài, trong khi của phụ nữ thì ở trong. Chúng được tạo dựng để dành cho nhau. Đàn ông đi vào trong cơ thể của đàn bà, đàn bà thì tiếp nhận ông. Họ nên “một xương một thịt”. Khi nói thân xác con người có tính hợp hôn, đức Giáo hoàng Gioan-Phaolô muốn nói rằng chúng được tạo dựng nên cho tình yêu, để sống tương giao. Đó là một hệ luận của bản tính biểu tượng của thân xác con người. Đàn ông và đàn bà hấp dẫn lẫn nhau. Có hấp dẫn thể xác bên ngoài mà cũng có hấp dẫn tinh thần từ bên trong. Họ kết hôn và hợp hoan nên một. Hành động ấy vừa thuộc thể xác vừa thuộc tinh thần, bởi thân xác con người có tính biểu tượng.
Trong tình trạng trần truồng của mình, người đàn ông và người phụ nữ đầu tiên đã khám phá ra điều mà Đức Giáo hoàng gọi là “ý nghĩa hợp hôn của thân xác”. Tình yêu hôn nhân là tình yêu hiến thân trọn vẹn. Bởi thế, ý nghĩa hợp hôn của thân xác là “khả năng diễn tả tình yêu: một tình yêu trong đó con người trở thành tặng phẩm ngôi vị và - nhờ tặng phẩm này - con người thực hiện chính ý nghĩa của hữu thể và hiện hữu của mình”[4]. Sự khác biệt giới tính tỏ lộ một kế hoạch không thể lầm lẫn của Thiên Chúa trong đó thân xác của người nam và người nữ có ý nghĩa là tặng phẩm dành cho nhau. Nhưng không chỉ có thế, việc họ dâng hiến cho nhau, theo tiến trình bình thường tự nhiên, sẽ dẫn đến một “kẻ thứ ba”.

Thân xác con người có tự do nhưng trong tình trạng yếu đuối vì sa ngã

Trước khi phạm tội, thân xác con người hay nhân vị vốn tự do, nghĩa là không bị nô lệ cho tội lỗi cùng những dục vọng của nó. Tự do ấy của thân xác là sự tự do của tặng phẩm dành trao hiến cho nhau, như đã nói trên đây, và là nền tảng cần thiết để yêu thương như Thiên Chúa yêu thương. Không có tự do, người nam và người nữ không thể trao ban cũng không thể đón nhận tình yêu.

Thế nhưng, thân xác của con người đã bị tội lỗi làm ảnh hưởng. Thân xác không là nguyên nhân của tội. Nhưng vì chúng ta là hữu thể thống nhất của hồn và xác, và tội lỗi xuất phát từ sự lạm dụng tự do vốn thuộc lãnh vực tâm linh, nên thân xác bị ảnh hưởng.
Hậu quả đầu tiên của tội nguyên tổ là cái chết. Thiên Chúa không dựng nên chúng ta để chết. Sự chết không có ý nghĩa gì cả. Thiên Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống. Ngài muốn chúng ta được sống, và sống viên mãn. Như sách Khôn Ngoan đã viết: “Thiên Chúa không làm ra cái chết, chẳng vui gì khi sinh mạng tiêu vong. Vì Người đã sáng tạo muôn loài cho chúng hiện hữu” (Kn 1, 13-14). Một hậu quả khác của tội nguyên tổ là dục tình dâm loạn. Một người đàn ông có thể đem lòng thèm muốn một người đàn bà. Người ấy có thể chỉ xem người đàn bà như một món đồ chơi để thỏa khoái lạc dục vọng trong chốc lát, rồi bỏ. Có thể người ấy nhìn một người phụ nữ chỉ ở vẻ đẹp thể chất với ánh mắt nhục cảm, mà không chạm tới ngã vị vốn vô hình của một chủ thể.

Nhưng thân xác con ngươi đã được Đức Kitô cứu chuộc

Nhưng tất cả không bị đánh mất. Đức Kitô, nhờ cái chết và sự phục sinh của Người, khôi phục lại cho chúng ta ý nghĩa của cuộc sống và thân xác con người. Thân xác Người đã bị đóng đinh. Bởi cái chết thể lí của Người, thân xác chúng ta được “phục hồi”. Thân mình Người bị ngọn giáo đâm thấu tim, từ đó máu và nước tuôn trào thành “nguồn mạch cho đời sống bí tích trong Hội thánh”. Sau phục sinh, Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ và cho họ chạm đến thân thể Người. Các Tông đồ gặp gỡ Đấng Phục sinh, còn Thánh Tôm thì được chạm ngón tay vào cạnh sườn Người. Kinh nghiệm thể lí đó đưa ngài đến đức tin.

Thật ra, sau cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô, cuộc sống của chúng ta trở nên còn tốt hơn cả lúc nguyên tổ chưa phạm tội. Từ nay, Thiên Chúa đã bước vào lịch sử. Chúa Cha đã sai Con mình đến trần gian. Thiên Chúa siêu việt và vô hình đã trở nên hữu hình. Hơn nữa, vì Thiên Chúa đã hóa thành nhục thể, giờ đây ta có thể sờ chạm, nếm hưởng, cảm nghe được tiếng Ngài. Thật tuyệt diệu đến không thể tin được! Tội lỗi của chúng ta được tẩy sạch, cuộc sống của chúng ta được khôi phục lại và chúng ta được nâng lên sống một đời sống mới với Đức Kitô.

Kết

Thân xác chúng ta và chính chúng ta được tạo dựng để yêu thương, chứ không để phục lụy dục vọng thấp hèn. Như thế, chúng ta khám phá ra ý nghĩa sâu thẳm rằng thân xác là để tương giao hơn là để cho khoái lạc tính dục. Tính dục chỉ quan trọng trong mức độ khi nó phục vụ cho sự tương giao.


Bài 4 – Độc thân như một đề nghị từ Tin Mừng

Đọc 1Cr 7, 32-38

1. Chúng ta sẽ suy tư về đề tài liên hệ đến chúng ta rất sâu xa và quyết liệt: độc thân. Chúng ta sẽ lần lượt nói về sự độc thân như một lời đề nghị từ Tin Mừng và rồi độc thân như một sự dấn thân sống chức linh mục.

Chúng ta muốn gạn lấy những điểm tích cực và phong phú trong kế hoạch của Thiên Chúa Cha và hiểu được tầm quan trọng của linh đạo của sứ vụ linh mục thừa tác.
Chúng ta có một Tôn sư, hơn tất cả mọi người, biết những gì ở trong tâm hồn con người, và, biết điều gì thích hợp nhất cho sứ vụ chân thực và đem lại hoa quả tốt nhất cho chúng ta, là những mục tử được ủy thác bời vị Mục Tử tối cao.

Một đặc sủng biệt lệ

2. Độc thân tự nguyện và hôn nhân cả hai đều là những hồng ân tốt đẹp và đáng quí về mặt thiêng liêng. Thánh Phaolô nói: “Mỗi người được Thiên Chúa ban cho đặc sủng riêng, người thế này kẻ thế khác” (1Cr 7, 7).

Độc thân bởi tự do chọn lựa vì Tin Mừng là một đặc sủng (chàrisma), nghĩa là một ơn của Chúa ban cho cá nhân nhằm lợi ích của cộng đồng. Độc thân để bớt bận tâm lo lắng việc đời chỉ chuyên tâm cho việc Nước Trời: “Đàn ông không có vợ thì chuyên lo việc Chúa: họ tin cách làm đẹp lòng Người” (1 Cr 7, 32); và không cảm thấy bị “giằng co” (1 Cr 7, 34). Nhưng về cơ bản độc thân nhằm tới cùng đích là “Nước Trời” và xác định hiệu quả của Nước Trời hơn giữa những bấp bênh và mâu thuẫn của thế gian.
Dù đặc sủng nào cũng là ơn Chúa ban đáng quí trọng, nhưng theo thánh Phaolô chọn lựa sống độc thân về khách quan vẫn hơn (có lẽ vì thời Cánh Chung đang đến gần): “Ai cưới người trinh nữ của mình, thì làm một việc tốt, nhưng ai không cưới, thì làm một việc tốt hơn” (1 Cr 7, 38) và ngài còn nói: “Tôi ước muốn mọi người đều như tôi” (1 Cr 7, 7).

3. Đức Giêsu nói về chuyện độc thân (“hoạn”) có một sức diễn đạt kì lạ: “Có những người không kết hôn vì từ khi lọt lòng mẹ, họ đã không có khả năng; có những người không kết hôn vì bị người ta hoạn; lại có những người tự ý không kết hôn vì Nước Trời. Ai hiểu được thì hiểu” (Mt 19,12).

Người nói: “Không phải ai cũng hiểu được điều ấy, nhưng chỉ những ai được Thiên Chúa cho hiểu mới hiểu” (Mt 19, 11). Chúa thích điều gì hơn ai cũng rõ, nhưng đồng thời cũng hiểu độc thân thánh hiến là một ơn hãn hữu, và trong mọi trường hợp nó không phổ biến như ơn gọi hôn nhân. Người cũng nói: “Ai hiểu được thì hiểu”. “Ai hiểu được”: có nghĩa đây không phải là một bậc sống (tình trạng- sống thường xuyên) dành cho hết mọi người. “Thì hiểu”: diễn tả một ước muốn sống động được biến điều có thể ấy thành một thực tế.

Vì Nước Trời

4. “Vì Nước Trời”

“Nước Thiên Chúa” hay “Nước Trời”, theo ngôn ngữ của Phúc âm, là một thực tại vừa mang chiều kích cánh chung vừa mang chiều kích Giáo hội. Độc thân vì Nước Trời trước hết như là một lời tiên tri loan báo trước thế giới tương lai, thế giới của phục- sinh, khi “người ta chẳng lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời” (Mt 22, 30).

Tương tự như bí tích Thánh Thể và các bí tích khác, đời sống độc thân khiết tịnh hoàn hảo bởi tự do chọn lựa là một sự hiện diện của Nước Thiên Chúa trong lịch sử. Đó là một lời loan báo và là hoa quả đầu mùa của thế giới vĩnh cửu của Thiên Chúa mà mọi người khao khát. Về mặt này, ta có thể nói rằng độc thân khiết tịnh còn có một bản tính bí tích nào đó.

Nó vừa ám chỉ vừa hiện thực hóa thực tại cánh chung, và như thế, chính bậc sống ấy là một thứ bí tích, không cần có thêm một bí tích nào khác để xác định và thánh hiến nó.
Nhưng nó không thiếu mầu nhiệm sự sống phục sinh vốn đã có mặt rồi ở thế giới này cũng như không thiếu chiều kích giáo hội. “Vì Nước Trời” cũng có nghĩa là: nhằm đến việc thiết lập và phát triển Nước Thiên Chúa ở dưới thế này và vào lúc này, trong thực tại Hội Thánh (là Nước Thiên Chúa “iam praesens in mysterio”, như Công Đồng Vatican II nói).

Lịch sử Giáo hội xác nhận điều ấy cách rõ ràng: chỉ cần nghĩ tới sức sống Tông đồ vô cùng lớn và tình yêu đã được tuôn đổ vào Dân Chúa dọc dài các thế kỷ nhờ đặc sủng đời sống dâng hiến là đủ thấy rõ.

Để cứu vớt đời sống tinh dục

5. “Chọn lựa ưu tiên của Đức Kitô” đời sống độc thân dâng hiến, vốn đã được Hội Thánh đón nhận và tôn vinh, đối với toàn thể thế giới cổ đại là một điều hoàn toàn mới mẻ, và một cách nào đó, còn là một “gương xấu”. Độc thân khiết tịnh là một dấu chỉ gây kinh ngạc mạnh mẽ cho nhân loại, như một điều gì đó bất ngờ chấn động thế giới khi ấy vốn đã già nua, và cho ta hiểu rằng Thiên Chúa nay đã đến ở giữa chúng ta (Emmanuel) và Nước của Ngài đã bén rễ vào trong thế gian.

Dưới ánh sáng của nó, ta thấy đời sống tính dục và hôn nhân được cứu vớt và được nâng cao đến một trật tự mới được khai sinh từ cuộc Khổ nạn của Đức Kitô.

Hơn bao giờ hết, ta cần cấp thời và nhiệt thành giới thiệu nhân tố “cách mạng” này của Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho thời đại ngày nay, để tái lập cân bằng cho một nền văn hóa vốn về mặt này đã rất suy đồi.

Nền văn hóa thời đại hôm nay phổ biến tư tưởng cho rằng chuyện sinh hoạt tình dục của người ta là “tuyệt đối”, không thể bị khống chế bởi một lề luật hay cứu cánh nào; cho rằng sinh hoạt tình dục không có lí do tồn tại nào khác ngoài chính nó; rằng tính dục giải thích mọi động thái của con người và nó không cần được khai sáng bởi bất cứ cái gì bên ngoài nó. Tư tưởng giả trá sai lạc đó dẫn đến những hệ lụy bi đát như: quan hệ nam - nữ trở nên tùy tiện, không mục đích, không ánh sáng; sau cái gọi là cuộc “giải phóng tình dục”, hoạt động tính dục (sự “làm tình”) chỉ đưa đến đau buồn, hoang mang, xa lánh nhau, như bị rơi xuống vũng lầy của vô nghĩa; định chế hôn nhân, với những luật lệ qui tắc và cứu cánh, cuối cùng bị xem như một điều gì cổ lỗ, lỗi thời.

Điều đầu tiên nền “văn hóa” này cần được thương cứu vớt là khơi dậy lòng khát mong sự thật. Kitô giáo đáp ứng bằng đề nghị sống trinh khiết hoàn toàn và mãi mãi như một lí tưởng khả thi và đáng mong ước.

Chúng ta cần hiểu và giúp người khác hiểu rằng quan hệ tính dục có bản tính là “tương đối”. Nó là tương đối so với tình yêu, vì nó phải chỉ là hệ quả và biểu lộ của tình yêu. Nó tương đối so với sự sống, vì nó phải mở ngỏ cho sự sống. Bởi vì tình yêu - sự sống mới là cứu cánh. Nó tương đối, trong chiều sâu bản thể, so với mầu nhiệm cội nguồn của các sự vật hiện hữu, nghĩa là mầu nhiệm hôn phối “Đức Kitô toàn thể” (“Christus totus”), thực tại mà nó là hình ảnh sống động.

Thế nên, đời dâng hiến trinh khiết Kitô giáo, như một lối diễn tả tình yêu khác và không kém chân thực; như một nguyên lí lan tỏa sự sống thần linh khác và không kém hiệu quả; như một “linh ảnh” khác và trực tiếp hơn của “tiệc cưới vĩnh cửu”, ban cho mối quan hệ nam-nữ một kích thước đúng đắn; là một kích thước cao sang, nhưng cũng cụ thể, và không chấp nhận những đổi thay có tính thế tục có thể làm nó suy thoái hay biến chất.

Nói cách đơn giản hơn: chỉ trong một Kitô giáo biết bảo vệ và tôn vinh đời sống trinh khiết, thì tính dục, đời sống phu thê, định chế hôn nhân mới được cứu thoát khỏi những ngu muội làm mục nát con người.

Vấn đề mục vụ thực sự không phải là hòa hợp những đòi hỏi của Tin Mừng với những đồi bại của một xã hội no nê và suy thoái, nhưng là biết cách trình bày lời khuyên của Tin Mừng trong toàn thể của nó và của sức mạnh kì diệu của nó.

Dấu hiệu sự hiện diện của Đức Vua

6. Trong Thánh thi Giáng sinh thánh Ambrôsiô khẳng định rằng chính sự đồng trinh của Đức Maria là bảo chứng khách quan cho tính hiện thực của phép lạ Nhập Thể: “Talis decet partus Deum”[5] [sinh hạ (đồng trinh) như thế phù hợp với Thiên Chúa].

Cũng như những cờ hiệu hoàng đế (thời Roma cổ đại) báo hiệu bên ngoài rằng quốc vương đã ngự giá trong cung điện ngài, cũng thế sự khiết trinh tinh tuyền của người Mẹ đã chỉ báo trong cung điện và nơi rất thánh cung lòng Người Đức Vua hoàn vũ đã thực sự ngụ cư: “Vexilla virtutum micant: versatur in templo Deus” [cờ hiệu trinh khiết lấp lánh đó: Thiên Chúa cư ngụ đây trong Đền thánh Người][6]

Hình ảnh này có thể mở ra với chiều kích Giáo hội học. Chỉ một Giáo hội còn giữ được cách minh nhiên bậc sống “chọn lựa ưu tiên của Đức Kitô” ấy và những dấu hiệu của đặc sủng này của Tin Mừng không bao giờ bị che phủ hay bị coi thường, mới có thể cho những con người ngay thẳng và thiện chí thấy được Giáo hội như là hoa quả đầu mùa của một nhân loại mới, trong đó Đấng Emmanuel đang sống, Thiên Chúa đã bước vào lịch sử nhân loại.

Hướng đến sự độc thân linh mục

7. “Đặc sủng của ơn gọi linh mục, vốn nhằm đến phụng tự và phục vụ việc tôn giáo và mục vụ của Dân Thiên Chúa, thì khác với đặc sủng độc thân của đời sống thánh hiến”.[7]

Vì thế sự liên hệ giữa hai đặc sủng - được thiết lập bởi Giáo luật về sự độc thân của các thừa tác viên thánh - không trực tiếp rõ ràng, đúng hơn, liên hệ chỉ ngoại tại và thực tế. Nhưng vấn đề cũng đáng cho ta xem xét sâu xa hơn.

Hẳn là Giáo hội đã thiết lập mối liên kết giữa chức linh mục thừa tác và sự độc thân bằng một quyết định của mình; một quyết định có tính “lịch sử” và tích cực, nhưng hợp pháp và hợp lý.

Đó là một quyết định hợp pháp, bởi vì quyết định ấy được làm ở bên trong phạm vi năng quyền của Giáo hội muốn ổn định kỷ luật các sự kiện về Giáo hội, và không làm thiệt hại quyền lợi của ai cả. Về vấn đề này không bao giờ được quên rằng nhận một thừa tác vụ không nhằm để phục vụ quyền lợi cho một cá nhân: mọi thừa tác vụ là một trách vụ được giáo quyền hợp pháp trao phó cách tự do, không vì hợp với năng khiếu hay khuynh hướng của các cá nhân, mà đúng hơn vì ích lợi hơn của cộng đoàn.

Đó là một quyết định hợp lí. Để nhờ đến một cơ chế pháp luật bảo đảm cho “chọn lựa ưu tiên của Đức Kitô” vì bậc sống độc thân tiếp tục có một hiện diện sống động trong lịch sử và trong ý thức của Giáo hội. Về việc này, chúng ta cũng có một chứng cứ phản biện của các Giáo hội Cải Cách. Họ đã cắt đứt mối liên hệ thế tục giữa độc thân và trách nhiệm mục vụ; nhưng thực tế họ cũng đánh mất luôn “chọn lựa ưu tiên của Đức Kitô” như một sự kiện thường trực có tổ chức trong cuộc sống của Giáo đoàn.

Những nhận định này là đúng đắn nhưng vẫn còn một chút hời hợt và không giúp chúng ta nắm bắt toàn thể sự thật và ý định mạch lạc thâm sâu của Thiên Chúa. Nếu muốn đi sâu vào vấn đề, chúng ta phải quay về chiêm ngắm Chúa Giêsu, linh mục duy nhất và viên mãn của Tân ước. Mọi sự hiểu biết đích thật về chức linh mục thừa tác và các vấn đề của nó chỉ có thể khởi đi từ Người.

 

Bài 5 – Độc thân như một dấn thân của đời linh mục

Đức Kitô Tân Lang

1. Thắc mắc đầu tiên của chúng ta là: tại sao Đức Giêsu ở độc thân? Tại sao Người không kết hôn, dù đã đến tuổi trưởng thành lâu rồi và lại đang sống trong một xã hội người ta vốn không có tập tục sống độc thân?

Chúng ta không thể xem sự kiện này chỉ là chuyện ngẫu nhiên, không có nghĩa lí gì, hoặc xem vấn đề này là ngớ ngẩn và lố bịch. Trong cuộc sống của Đức Kitô không có chi tình cờ hay vô nghĩa. Với tất cả những gì Người làm và những sự kiện đã xảy ra trong đời Người, Người hoàn toàn là một “dấu lạ”; chúng ta phải đọc thấu đến tận cùng “dấu lạ” Đức Kitô này.

Đời độc thân của Đức Giêsu và của tiên tri Giêrêmia chắc chắn nhằm để diễn tả điều gì. Trong khi đối với Giêrêmia, độc thân của ông biểu trưng cho sự hoang tàn của Israel (cf. Gr 16,l), thì nơi Đức Giêsu đó là chứng cứ của một nhân loại không còn bị bỏ rơi và cô độc, nhưng trái lại được kêu gọi đi vào hiệp thông hôn phối với Đức Chúa.

Đức Giêsu rõ ràng sống độc thân, thực ra theo nghĩa tuyệt đối Người là một “Tân Lang”: Người không kết hôn vì đã kết hôn rồi.

Tân ước hay nhắc đi nhắc lại chủ đề “Đức Kitô Tân Lang” (hay “Chàng rể”). Phúc âm Nhất Lãm nói đến qua các dụ ngôn tiệc cưới của con nhà vua (cf. Mt 22,2), các cô trinh nữ phù dâu trong đám cưới (cf. Mt 25, l), ông chủ đi ăn cưới về lúc giữa đêm (cf. Lc 12,38). Cũng còn phải kể đến những lời nói từ miệng Chúa Giêsu mà cả ba Phúc âm Nhất Lãm đều nói tới, trong đó Chúa Giêsu được trình bày như là “Chàng rể” và các môn đệ như là “những khách được mời dự tiệc cưới” (cf. Mt 9, 15; Mc 2, 19; Lc 5, 34). Phúc âm thứ tư nói Gioan Tẩy Giả xác nhận Đức Giêsu như là chàng rể “cưới cô dâu” (cf. Ga 3,29).

Sách Khải Huyền mô tả việc thiết lập Vương Quốc Thiên Chúa như “tiệc cưới của “con Chiên”, mà cô dâu đã trang điểm sẵn sàng; “nàng đã được mặc áo vải gai sáng chói và tinh tuyền” (cf Kh 19, 7-8). Ở đây người ta cũng nói đến, như trong Phúc âm Nhất Lãm, “các khách mời dự tiệc” (cf. Kh 19,9).

Thánh Phaolô cũng sử dụng hình ảnh phu thê chỉ tương quan của Đức Kitô với Hội Thánh, áp dụng hình ảnh “hiền thê” cho cộng đoàn Kitô, và dưới ánh sáng của hình ảnh này ngài đi sâu vào bản chất của mối tương quan kết hợp giữa Đức Kitô và Hội Thánh (cf. Ep 5,25-32).

Như ta đã thấy, Giáo hội sơ khai đã dùng đề tài “hôn phối” của Đức Kitô như là cơ bản để hiểu biết cho đầy đủ mầu nhiệm cứu độ, và chúng ta cũng có thể lại thấy nó ở trong những bối cảnh khác của cộng đoàn Giáo hội nguyên thủy.

2. Thánh Phaolô nhìn thấy “bản chất thần học” của hôn nhân Kitô giáo nơi “mầu nhiệm” hôn phối của Đức Kitô và Hội Thánh (cf. Ep 5,32), nghĩa là biểu trưng và sự hiện diện của ân sủng thực tại hôn phối tối thượng kết hợp Đức Kitô và Hội Thánh thành “một xương một thịt”. Từ phân tích này của Thư Êphêsô cho ta hiểu ý nghĩa của sự độc thân của Đức Kitô.

Đức Kitô phải độc thân trong cuộc đời trần gian vì Người không thể là “dấu chỉ” của một thực tại lại cũng là chính thực tại tối thượng được chỉ đến. Nếu dây hôn phối giữa hai người đã được rửa tội là bí tích (nghĩa là một dấu chỉ hữu hiệu) của sự hiến thân của Đức Kitô kết hợp với nhân loại mới, thì Đức Kitô Đấng tự hiến trong hôn phối với nhân loại ấy dĩ nhiên không thể mặc lấy một hình thái bí tích nào nữa. Chính vì hôn nhân của loài người có lí do hiện hữu từ Đức Kitô, vốn là thực tại nền tảng và là nguyên lí, nên Người không thể có một lí do hiện hữu từ đâu khác (tức là từ hôn nhân loài người). Nếu, có thể nói là, thực tại hôn nhân đã bước vào trong mầu nhiệm Đức Kitô và trong Đức Kitô hôn nhân loài người được biến đổi trở thành dấu chỉ mang sự sống thần linh, thì người ta không thể nghĩ Đấng tự thân là toàn thể thực tại hôn phối lại có thể đi vào phận số hôn nhân và được nó xác định.

Ý nghĩa hôn phối của Đức Kitô

3. Câu hỏi thứ hai được đặt ra là: Đức Kitô là Hôn Phu của Hội Thánh được hiểu như thế nào?

Cũng từ đoạn Thư gửi tín hữu Êphêsô trên ta tin ra câu trả lời.

Là Hôn Phu có nghĩa là Đức Kitô là “Đầu” của Hội Thánh, và Hội Thánh là thân mình của Người và tùng phục Người (cf. Ep 5, 23.24). Nghĩa là Đức Kitô đã cứu Nàng khỏi thân phận hư hoại của thế gian, đã ban cho Nàng Danh của Người, và như thế là đã cứu chuộc Nàng: “Người là Đấng cứu chuộc Hội thánh” (Ep 5, 23). Nghĩa là Người đã yêu mến và vẫn yêu mến Hội Thánh, đến độ hiến thân mình vì Hội Thánh (5,25). Nghĩa là, Người tái sinh Hội Thánh và thanh tẩy Hội Thánh không ngừng nhờ các bí tích và lời Chúa (5,26). Nghĩa là, Người kiên trì không mệt mỏi trong việc thánh hóa Hội Thánh để làm cho Hội Thánh “không tì ố, không vết nhăn, nên tinh tuyền, thánh thiện” (5,27). Nghĩa là Người “nuôi nấng và chăm sóc Hội Thánh” (5,30) như mục tử chăm sóc đàn chiên mình.

Như chúng ta thấy, bản tính hôn phu của Đức Kitô gợi ra tất cả những chức năng như “hướng dẫn”, “dạy dỗ”, “thánh hóa”, “chăn dắt”. Đấng Phục Sinh - tự giới thiệu mình như Đấng Chúa Cha sai đến trần gian, là Tông đồ hoàn hảo nhất – đã chuyển trao những nhiệm vụ ấy cho các Tông đồ, tức là những kẻ Người sai đi: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” (Ga 20, 21).

Đó là các nhiệm vụ, theo chứng cứ của Tin mừng Matthêu, Chúa Giêsu đã trao lại cho các kẻ “Người sai đi” trong lệnh truyền sau cùng: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28,19.20). Đó cũng chính là các nhiệm vụ đã được ủy thác cho chức linh mục.

Linh mục, bí tích của Đức Kitô Hôn Phu

4. Linh mục thừa tác làm Chúa Giêsu hiện diện giữa Dân Chúa và dược nhận biết qua những phận vụ vương đế, giảng dạy và phụng tự của Người. Vì thế chức linh mục thừa tác, nhờ bí tích truyền chức, về bản thể, tham dự vào đặc tính hôn phu của Đức Kitô.
Bởi thế, linh mục là một thứ “bí tích” của Đức Kitô Hôn Phu, trong hành động hiến dâng cho Hội Thánh với nhiều vẻ khác nhau. Linh mục được kêu gọi chia sẻ cùng tình yêu phu thê (hay đức ái mục tử) đầy ắp trong Trái tim Chúa Giêsu, và từ đó tràn ra trên “dân tộc thánh thiện”.

Bởi hiệp thông trực tiếp với bản tính hôn phu của Đấng Cứu Chuộc, bản thân linh mục thừa tác - như Người, với Người và trong Người - cũng có “mầu nhiệm hôn phối”, là thực tại mà hôn nhân của một người nam và một người nữ là hình ảnh; ngay cả linh mục cũng “kết hôn” (Ga 3,29).

5. Kết luận này được xác nhận trong Giáo luật: tất cả các Giáo hội, dù Tây phương hay Đông phương, đã bảo tồn một chiều kích bí tích thật sự, đều cùng nhau không nhìn nhận thừa tác viên thánh chức (phó tế, linh mục, giám mục) có thể kí kết hôn nhân.
Luật chung biểu lộ trước hết ý muốn bảo đảm, bằng qui định pháp lí, “chọn lựa ưu tiên của Đức Kitô” luôn tồn tại trong Kitô giáo; luật ấy hàm ẩn một nguyên tắc “lôgich bí tích”: chuyển tiếp từ “dấu chỉ” đến “thực tại” thì không phi lí, nhưng giả thiết chuyển từ cái đã là “thực tại” quay ngược về “dấu chỉ” thì không hợp lí.

Nguyên tắc này giúp ta hiểu về mặt thực hành, có hiệu lực ở một vài nơi trong Giáo hội, kêu gọi cả những người kết hôn đảm nhận chức thánh. Trong Giáo hội Đông phương, người kết hôn bình thường có thể nhận chức phó tế và linh mục (nhưng không nhận chức giám mục), trong Giáo hội la-linh điều đó có thể xảy ra đối với chức phó tế (còn đối với chức linh mục người đã kết hôn chỉ nhận trong một số trường hợp ngoại lệ đặc biệt).
6. Giờ đây, có lẽ đối chiếu bậc độc thân như lời đề nghị lừ Tin Mừng và sự độc thân như một dấn thân của đời linh mục sẽ ích lợi cho chúng ta.

Lối sống thứ nhất, vượt qua nẻo đường thông thường của hôn nhân, là một cách thức sống đặc biệt mầu nhiệm tình yêu mà Hội Thánh nuôi dưỡng vì Chúa của mình. Còn lối sống thứ hai được hình thành như là sự tham dự vào phận vụ hôn phu của Đức Kitô đối với cộng đoàn Kitô hữu, và được biện chính và nâng đỡ bởi tình yêu Đức Kitô dành cho Hội Thánh.

Ở bậc độc thân theo Tin Mừng ta hướng tới đồng nhất mình hoàn toàn với Hội Thánh Hiền Thê yêu mến, và hướng tới chia sẻ với Đấng cứu chuộc mình cuộc Khổ nạn độc đáo của Người.

Ở bậc độc thân của người Tông đồ, có thể nói, người ta bước vào trái tim của Chúa Giêsu để tạo lại cái đà sôi nổi của đấng Hôn Phu yêu mến và hiến mình cho “dân tộc thánh thiện”.

Cả hai bậc độc thân không phải là những tùy chọn loại trừ nhau. Ngược lại, cái thứ hai giả thiết có cái thứ nhất. Người ta không thể đảm lấy tình yêu mục tử của Đức Kitô nếu như người ta chưa muốn gắn bó không dè dặt với Chúa và nên một với Người, như Hội Thánh Hiền Thê là “một xương một thịt” với Hôn Phu mình.

Những điều kiện của sự trung thành

7. Trong viễn cảnh đó, ta có thể hiểu được rõ ràng những điều kiện tiên quyết và thiết yếu để vẫn mãi trung thành với “chọn lựa ưu tiên của Đức Kitô”, nhất là từ phía các thừa tác viên chức thánh. Những điều kiện ấy phát sinh từ một động thái mà chúng ta có thể gọi là “tâm lí học siêu nhiên”.

Điều kiện thứ nhất là làm sao để biết Chúa Giêsu rõ ràng, chắc chắn và không ngừng, làm sao để cho tình yêu cá nhân của tôi dành cho Người luôn sống động và tăng trưởng. Khởi đầu của bước đường dấn thân chúng ta không từ bỏ nhiều cho bằng là yêu mến hay phải lòng. Một sự từ bỏ xét như chỉ là hi sinh mà thôi không là lí do đủ mạnh để có thể kiên trì đến cùng. Chỉ khỉ ta tích cực khám phá ra giá trị của người ta yêu thương mới có thể rung thành với người ấy đến cùng.

Điều kiện thứ hai là biết nhận ra vẻ đẹp của Hội Thánh (dĩ nhiên với con mắt đức tin, cũng chính là cái nhìn của Đức Kitô trở thành của chúng ta). Không một tình yêu phu thê nào có thể được xác định trong con tim và trường tồn nếu người ta không nhận thấy được người phối ngẫu của mình đáng yêu và hấp dẫn.

Điều kiện thứ ba là quyết tâm muốn yêu mến (hay ít là cố gắng yêu thương mỗi ngày) con người với tâm hồn của Chúa Giêsu, Người nhìn con người như hình ảnh biến dạng của Chúa Cha và muốn phục hồi họ và cứu độ họ; Người muốn rằng chính những nét độc đáo của dung mạo người Con duy nhất và yêu dấu được tái tạo lại nơi họ, để Chúa Cha có thể nhận ra và đón nhận họ vào nhà Ngài.

8. Đối với thế gian và lí trí không cởi mở để được ân sủng trên cao khai sáng thì độc thân như là “chọn lựa ưu tiên của Đức Kitô” như thế xem ra quá cao vời đối với tầm mức nhân bản và không thực tế. Người ta không tin một lí tưởng độc thân theo Tin Mừng và độc thân của người Tông đồ như thế có thể thực hiện được trong thế giới này.
Thế nhưng bởi quyền năng của Thiên Chúa điều ấy đã được thực hiện. Đức Trinh Nữ Maria là mẫu gương hoàn hảo nhất cho mọi người chọn sống độc thân khiết tịnh vì Nước Trời. Mẹ là đại diện của tạo thành như hiền thê dâng hiến cho Đấng Tạo Hóa của mình. Còn mẫu mực bậc sống độc thân của người Tông đồ thì được thực hiện bởi Chúa Giêsu. Trong Chúa Giêsu đã có một trái tim con người có khả năng dâng hiến minh bạch và chắc chắn cho ơn cứu độ nhân loại và thánh hóa Giáo hội. Về phần các linh mục, điều quan trọng là các ngài dấn mình vào Đức Giêsu Kitô và kết hợp thâm sâu với Người trong tình yêu mục tử này.

Cuộc sống của Chúa Giêsu và của Đức trinh nữ Maria - và việc chúng ta kết nối sống động với các mẫu gương cao cả và hiệu quả này của lòng quảng đại - có thể được hiện tại hóa cho thế giới hôm nay, bởi “sự hiện diện của Đức Kitô” nơi “những người được Thiên Chúa ban cho” (cf. Mt 19, 11).


Bài 6 – Mẻ lưới rỗng và mẻ lưới đầy

Cần một lý tưởng

1. Chúng ta để ý tới tâm trạng của 7 người môn đệ trong trình thuật Ga 21,1-11. Họ không còn thất vọng nhưng đã thấy vui mừng vì được gặp gỡ Chúa Giêsu phục sinh. Mỗi người đã lấy lại được niềm tin, cậy và sự thanh bình. Thế nhưng, họ vẫn còn loạng choạng chưa có được một định hướng và dự phóng nào trong tư thế như là của một Hội thánh.

2. Các môn đệ này dù đã nghe Đấng phục sinh nói: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” (Ga 20, 21), tức là đã có một “sứ vụ”, nhưng như đang ở trong đám mây mù dày đặc họ chưa thấy trong thực tế con đường phải đi. Chúng ta cũng đôi khi rơi vào tâm trạng này, mong chờ “những dấu chỉ” chỉ đến điều cần phải làm cụ thể. Khi gặp phải kinh nghiệm này ta cần cầu nguyện, xin Chúa cứu gỡ ta khỏi sự nóng vội mất kiên nhẫn, ngã lòng, cám dỗ buông mình cho tính bốc đồng, hay cứ ngần ngại mãi.

Sự hiệp thông Hội thánh là điều quan trọng

3. Simon Phêrô nói: “Tôi đi đánh cá đây” (Ga 21, 3). Đó là một sáng kiến cá nhân chỉ liên hệ đến bản thân Simon, với lời nói đó ông không thi hành một quyền bính nào và không áp đặt quyền uy trên ai cả. Những người bạn kia đáp lại: “Chúng tôi cùng đi với anh”. Trong khi không biết làm gì, họ chỉ theo sau và cùng tham gia với Simon. Kết quả của lối hành động tự do độc lập này là “họ không bắt được gì cả”. Họ là những người chuyên nghề thuyền chài, ở đây xem ra họ có vẻ hành động bộc phát và tài tử nhưng không có Chúa Giêsu ở cùng, họ không có một khởi nguyên qui tụ lại trong một mối hiệp thông duy nhất.

Chiếc lưới không rách

4. “Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá” (Ga 21,6). Ở đây họ có Chúa Giêsu, Người truyền lệnh và họ làm theo, kết quả là: “họ không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá”. Cả Simôn Phêrô cũng thay đổi: “ông Simôn Phêrô lên thuyền, rồi kéo lưới vào bờ” (Ga 21, 11). Simôn bây giờ không còn chỉ là một cá nhân tự mình hành động, mà là một Phêrô thủ lãnh hành động với quyền bính và quyết định thay mọi người. Ở đâu có Chúa Giêsu, ở đó có Hội Thánh cùng với các thừa tác viên với những trách nhiệm được giao phó; và ở đâu có Hội Thánh thì ở đó có sự phong nhiêu, nghĩa là sự sống triển nở dồi dào.

5. “Lưới không bị rách” (Ga 21, 11): một sự may mắn chăng? Vì lẽ ra lưới vốn vô dụng ấy phải rách vì đầy cá như thế trong lần đánh bắt thứ hai nhọc nhằn đến kiệt sức sau một đêm.

Câu phúc âm ấy mang một ý nghĩa biểu tượng rõ ràng: cho dù sứ vụ được giao phó có lớn lao và không tương xứng với tầm vóc và sức lực nhỏ bé của mình, Hội Thánh vẫn cố gắng kiên trì đảm nhận, và sau cùng sẽ là khí cụ hữu hiệu mang ơn cứu độ cho con người.

Chúa Kitô hiện diện trong Hội Thánh

6. “Chúa đó” (Ga 21, 7) người môn đệ Chúa yêu mến đã hứng khởi thốt lên như thế lập tức chạm tới Phêrô và lan đến những người khác. Họ không chỉ nhận ra Đức Giêsu mà còn nhận ra Người như là “Đức Chúa”, nghĩa là Đấng duy nhất mà họ phải vâng phục tuyệt đối và vô điều kiện.

Chúa Giêsu đứng đó, trên bờ hồ trước mắt họ, cả trong thời gian các ông thực hiện mẻ lưới thất bại cũng như trong lúc diễn ra mẻ cá phong nhiêu. Như đã thấy, trong mẻ lưới đầu tiên các ông thực hiện theo tư cách cá nhân, dựa trên sáng kiến riêng tư; còn trong mẻ lưới thứ hai, các vị đã vâng theo lời mời gọi của Đức Kitô. Trong việc thứ nhất, các ông chỉ là một nhóm người như mọi tập thể con người; trong công việc thứ hai họ là một cộng đoàn Giáo hội.

Một điều quan trọng nữa, đó là: trong công việc thứ nhất, khi không là Giáo hội họ không nhận ra sự thật Chúa Giêsu hiện diện (“họ không nhận ra đó chính là Chúa Giêsu”, c. 4); còn trong công trình thứ hai, khi đã là Hội Thánh Chúa các ngài nhận ra Người: “Chúa đó!”.


Bài 7 – Chỉ tình yêu của Đức Kitô thúc bách.

1. Bữa ăn sáng trên bờ biển hồ Tibêriat của Chúa Giêsu Phục sinh với các môn đệ được Tác giả Phúc âm thứ tư mô tả với ám chỉ rõ ràng đến bữa tiệc Thánh Thể (Ga 21, 9-19).

Thức ăn ở đây là bánh và cá, giống như trong đoạn nói về dấu lạ bánh hóa ra nhiều của Phúc âm Gioan chương 6 dẫn vào bài giáo lí căn bản về đề tài “Bánh hằng sống” (Ga 6, 35) và “Thịt ban cho thế gian được sống” (Ga 5, 51). Phần thứ nhất của chương 21 này gợi cho ta suy nghĩ về sự hiện diện của Chúa như là yếu tố căn bản làm nên Hội Thánh và sự thuộc về Hội Thánh là điều kiện cốt yếu để ta được phát sinh hoa quả dồi dào (phong nhiêu).

2. Trên bờ biển Chúa Giêsu đang chờ các ngư phủ trở về với bữa ăn chuẩn bị sẵn: “các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa” (Ga 21, 9). Nhưng Người muốn họ mang đến cho Người những gì họ kiếm được bằng sức của con người: “Đem ít cá mới bắt được tới đây” (Ga 21, 10); đó là cá bắt được từ sáng kiến của Người, và là ơn huệ bởi lòng nhân lành của Người.

Ta thấy ở đây có một qui luật trong mầu nhiệm Thánh Thể. Lễ vật trên đôi tay của chúng ta, làm hi lễ dâng lên Chúa, là bánh và rượu vật chất của chúng ta. Ơn ban khôn tả của Chúa có phần khởi đầu thiết yếu là từ những sản phẩm nghèo nàn của ruộng đất và lao công của con người mà chúng ta đem đặt dưới quyền năng biến đổi của Thánh Thần. Nói cách khác, hiến lễ mà chúng ta dâng lên cho Chúa Cha là “của ơn huệ Ngài ban cho chúng ta” (“de tuis donis ac datis”) do lòng nhân hậu của Ngài.

Tình yêu thống hối của Phêrô

3. Toàn thể chương 21 của Phúc âm thứ tư trình bày khuôn mặt của Simon Phêrô. Vị Tông đồ tiêu biểu cho nhiều bộ mặt. Tiêu biểu cho một con người tội lỗi được tình yêu cứu vớt; qua ngài ta nhận ra bản tính của mọi hành động mục vụ trong Hội Thánh; tầm quan trọng của đoàn sủng và phận vụ ưu việt của Phêrô trong đời sống Hội Thánh.  
Trong đoạn đối thoại giữa Chúa Giêsu và Phêrô, với câu hỏi Người hỏi tới ba lần, có một sự ám chỉ rõ ràng và chua chát về ba lần Phêrô chối Thầy. Vị Tông đồ biết điều đó và cảm thấy đau đớn vô cùng: “Phêrô buồn vì Người hỏi tới ba lần: “Anh có yêu mến Thầy không?” (Ga 21, 17).

Trong cái đêm chết chóc ấy Đức Giêsu đã ngoái nhìn Phêrô sau khi chối Thầy đã khiến ông khóc thảm thiết, trong niềm cay đắng. Hình phạt ấy chẳng bao lâu sẽ biến thành niềm vui: vui mừng vì thấy mình được tha thứ. Đó là niềm vui của kẻ tội lỗi nhận ra tội lỗi của con người không bao giờ mạnh hơn Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Niềm vui khám phá ra rằng trong người Kitô hữu không có một lỗi tội nào, dù lớn đến đâu, mà không thể được tha thứ và xóa bỏ bởi tình yêu vì Chúa Giêsu.

Sứ vụ mục tử của Phêrô

4. Phêrô được Đức Kitô đặt làm mục tử. Trong chương Mười cũng của Phúc âm thứ tư này, Đức Giêsu xác định và giải thích Người là “Mục tử nhân lành”, như thế Người tuyên bố mọi người trong Hội Thánh (từ người lớn nhất đến người nhỏ nhất) đều là con chiên của Người và phải cảm thấy mình thuộc về đàn chiên ấy. Nhưng ở đây đề tài được trình bày rộng hơn nữa về mầu nhiệm “tham dự vào sứ mạng mục tử”; nghĩa là về mầu nhiệm một con người, dù vẫn là con chiên như tất cả mọi người thuộc đàn chiên của Đức Kitô, vẫn tùng phục Người nhưng được đại diện Người, trở thành mục tử. Ở đây Đức Giêsu nói: “các chiên con của Thầy”, “các chiên của Thầy”; nhưng Người cũng nói: “hãy chăn dắt”. Đàn chiên luôn tuyệt đối thuộc về Chúa; nhưng Người gọi một số người trong “đàn” làm nhiệm vụ của mục tử.

Vai trò tối thượng của Phêrô

5. Ta thấy cho tới nay Phêrô là hình ảnh tiêu biểu cho mọi tín hữu và mục tử. Những vẫn còn một điều quan trọng nữa, đó là: chỉ một mình Phêrô được Chúa nói: “hãy chăn dắt các chiên của Thầy”. Rõ ràng tác giả Phúc âm có ý nêu ra cho cộng đoàn Hội Thánh sứ vụ đặc biệt và độc nhất của Phêrô, là một sứ vụ nổi bật và đứng trên giữa sứ mạng tông đồ nói chung của Nhóm Mười Hai. Bởi thế mà Phêrô được Chúa hỏi: “Anh có yêu mến Thầy hơn những người này không?” (Ga 21, 15).

6. Như ta thấy, từ Lời Chúa chúng ta một lần nữa được thúc đẩy tái khám phá dấu lạ về Hội Thánh. Hội Thánh khởi đầu từ việc người ta đi theo Đức Kitô. Lời Chúa kêu gọi Phêrô: “hãy theo Thầy”, cũng hướng tới mỗi người, những người không khép lòng mình lại trước lời mời gọi hấp dẫn của chân lí tuyệt đối và vẻ đẹp của vĩnh cửu. Nhưng trước hết, lời ấy hướng đến chúng ta, là những người được mời gọi thực thi sứ vụ của các Tông đồ. Chính vì Chúa Giêsu vẫn còn làm cho tâm hồn ta say mê và hấp dẫn, nên Hội Thánh, dù có như thế nào, cũng luôn được bền vững và tươi trẻ mãi.

Từ trái tim Chúa Cha đổ tràn lòng Thương Xót của Ngài xuống trên chúng ta. Mỗi ngày chúng ta hãy nài xin lòng Thương Xót ấy được chúng ta đón nhận vào thực tế cuộc sống và thúc bách chúng ta dấn thân làm việc và hiến dâng (theo lôgich mầu nhiệm sâu xa của Thánh Thể mà chúng ta cử hành hằng ngày) cho thế gian được sống.



[1] GIOAN-PHAOLÔ II, Thần học về Thân xác; Tình yêu phàm nhân trong kế hoạch thần linh, bản dịch Việt ngữ, nxb Tôn giáo - 2016, 155-156.

[2] Ibid., 85.

[3] Ibid.

[4] Ibid.,125.

[5] SANT’AMBROGIO, Inno In Natali Domini.

[6] Ibid.

[7] Paolo IV, Thông điệp Sacerdotalis caelibatus, 15, 24/06/1967.

 

Nguồn tin: gpbanmethuat.com